TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 60/2022/HS-ST NGÀY 19/07/2022 VỀ TỘI LÀM GIẢ TÀI LIỆU CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC
Ngày 19 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 40/2022/TLST-HS ngày 19 tháng 5 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 170/2022/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 7 năm 2022 đối với bị cáo:
Bùi Thị Thu H, sinh năm 1993 tại Hải Phòng. Đăng ký nhân khẩu thường trú: Số 46/88 P, phường N, quận L, thành phố Hải Phòng; nơi sinh sống: Số 189 Đ, phường Đ, quận D, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn V và Vũ Thị C; có chồng là Nguyễn Mạnh H và 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 07/01/2022 đến ngày 14/01/2022 được thay thế biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng đầu năm 2019, Bùi Thị Thu H bàn bạc với Trần Thị Cẩm (là Trạm trưởng Trạm y tế phường Phù Liễn, quận Kiến An, Hải Phòng) về việc bán giấy chứng nhận sức khoẻ có sẵn chữ ký của Cẩm, dấu của Trạm y tế phường cho Bùi Thị Thu H để Hà bán lại cho những người có nhu cầu. Bùi Thị Thu H thoả thuận mua của Cẩm mỗi giấy chứng nhận sức khoẻ là 7.000 đồng. Cẩm biết rõ từ năm 2013 Trạm y tế phường Phù Liễn không có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận sức khoẻ theo quy định của Bộ Y tế nhưng vẫn đồng ý. Cẩm khai đã 03 lần bán giấy chứng nhận sức khoẻ như trên cho Bùi Thị Thu H, lần thứ nhất vào tháng 4/2019 với số lượng 30 tờ, lần thứ hai vào tháng 6/2019 với số lượng 40 tờ và lần thứ ba khoảng tháng 4-5/2020 với số lượng 40 tờ. Cẩm đã được hưởng lợi số tiền là 770.000 đồng.
Sau đó Bùi Thị Thu H đăng thông tin về việc bán các giấy chứng nhận sức khỏe trên mạng xã hội Facebook nên Trần Thị Thu Hà biết và liên hệ qua tài khoản zalo có tên là “Hà Mun” của Bùi Thị Thu H để mua với mục đích bán lại kiếm lời. Trần Thị Thu Hà khai đã mua của Bùi Thị Thu H 02 lần với tổng số là 80 giấy chứng nhận sức khỏe với giá 30.000 đồng/01giấy vào khoảng tháng 4/2020, tháng 6/2020 và bán lại cho những người có nhu cầu mua với giá 100.000 đồng/1 giấy. Sau khi nhận được giấy khám sức khỏe, Trần Thị Thu Hà viết sẵn một số thông tin trong các mục tiểu sử bản thân, khám (trừ chỉ số chiều cao, cân nặng, mắt) và kết luận theo hướng dẫn của Bùi Thị Thu H còn các thông tin về người được khám khi có khách hỏi mua thì Trần Thị Thu Hà mới viết vào. Trần Thị Thu Hà đã bán được 68 giấy chứng nhận sức khỏe, hưởng lợi số tiền 4.760.000 đồng. Ngày 07/9/2020, Trần Thị Thu Hà đang giao dịch bán 01 giấy chứng nhận sức khoẻ cho Nguyễn Thị Trang Anh, sinh năm 1997, nơi cư trú: số 675 Thiên Lôi, quận Lê Chân, Hải Phòng tại khu vực đầu ngõ 56/46 Lạch Tray, quận Lê Chân, Hải Phòng thì bị Công an phường Hàng Kênh phát hiện và đưa Trần Thị Thu Hà, Trang Anh cùng vật chứng về trụ sở Công an phường lập biên bản giải quyết vụ việc.
Tại Công an phường Hàng Kênh, Trần Thị Thu Hà giao nộp thêm 11 giấy chứng nhận sức khoẻ khổ A4 có chữ ký xác nhận của bác sỹ mang tên “Trần Thị Cẩm”, có đóng dấu của Trạm y tế phường Phù Liễn, quận Kiến An, Hải Phòng và được ghi sẵn một số nội dung trừ phần họ tên, năm sinh, nơi sinh, địa chỉ... Ngoài ra còn thu giữ của Trần Thị Thu Hà 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi, 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Thị Hải Yến, 01 căn cước công dân mang tên Đoàn Văn Liệu, 01 ảnh kích thước 4x6cm và 01 căn cước công dân mang tên Vũ Quang Đức. Trần Thị Cẩm giao nộp cho Cơ quan Công an 01 con dấu của Trạm y tế phường Phù Liễn, 01 hộp mực dấu, 01 con dấu chức danh mang tên Trần Thị Cẩm, một số giấy tờ cá nhân của Cẩm, 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung.
Kết luận giám định số 122/KLGĐ ngày 09/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận:
- Chữ viết tại các mục in sẵn trên các tài liệu cần giám định (ký hiệu từ A1 đến A12) trừ chữ viết tại mục “Y, bác sĩ khám” so với chữ viết của Trần Thu Hà, sinh năm 1990; chỗ ở hiện nay: Số 18/56/46 Lạch Tray, Lê Chân, Hải Phòng trên các tài liệu mẫu so sánh (ký hiệu M1, M2, M3) là chữ viết của cùng một người.
- Chữ ký, chữ viết mang tên “Trần Thị Cẩm” tại mục “Y, bác sĩ khám” trên các tài liệu cần giám định (ký hiệu từ A1 đến A12) so với chữ ký, chữ viết của Trần Thị Cẩm, sinh năm 1971; địa chỉ: Số 16/50 Đổng Tử 2, Phù Liễn, Kiến An, Hải Phòng trên các tài liệu mẫu so sánh (ký hiệu M4, M5) là chữ ký, chữ viết của cùng một người.
- Hình dấu tròn có nội dung “TRẠM Y TẾ PHƯỜNG PHÙ LIỄN” tại mục “Y, bác sĩ khám” trên các tài liệu cần giám định (ký hiệu từ A1 đến A12) so với hình dấu tròn có cùng nội dung được đóng ra từ con dấu tròn (ký hiệu M6) là do cùng một con dấu đóng ra.
Sau khi hành vi phạm tội bị phát hiện, Bùi Thị Thu H bỏ trốn khỏi địa phương nên Cơ quan CSĐT Công an quận Lê Chân đã ra Quyết định truy nã số 08/QĐ- CALC ngày 24/8/2021 đối với bị cáo. Ngày 02/9/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân ra Quyết định tách vụ án số 04, Quyết định tạm đình chỉ điều tra vụ án đối với bị can số 05, Quyết định tạm đình chỉ điều tra bị can số 11 đối với Bùi Thị Thu H.
Ngày 27 tháng 9 năm 2021 Tòa án nhân dân quận Lê Chân đã tiến hành xét xử đối với Trần Thị Cẩm và Trần Thị Thu Hà về tội Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 341 Bộ luật hình sự và quyết định xử lý vật chứng đối với số đồ vật, tài sản thu giữ trên.
Ngày 06 tháng 01 năm 2022 Bùi Thị Thu H đến Phòng Cảnh sát kinh tế Công an tỉnh Thái Bình đầu thú.
Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân Bùi Thị Thu H khai nhận phù hợp nội dung trên, ngoài ra Bùi Thị Thu H còn khai nhận: Trong khoảng thời gian từ tháng 4/2019 đến tháng 6/2020 Hà đã mua của Cẩm 2 lần tổng là 60 tờ giấy chứng nhận sức khoẻ với giá là 7.000 đồng/tờ, sau đó bán lại cho Trần Thị Thu Hà 2 lần - 60 tờ mỗi tờ là 30.000đồng, hưởng lợi 23.000đ/tờ.
Bản Cáo trạng số 51/CT-VKS ngày 18/5/2022,Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân truy tố Bùi Thị Thu H về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 341 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa bị cáo Bùi Thị Thu H khai nhận hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng đã nêu.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo như nội dung cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ của bị cáo, Kiểm sát viên đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân đề nghị Hội đồng xét xử:
- Về hình phạt:
Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 341; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt Bùi Thị Thu H mức án từ 42 đến 48 tháng tù về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.
- Về xử lý vật chứng: Vật chứng của vụ án đã được xử lý tại Bản án hình sự sơ thẩm số 107/2021/HS-ST ngày 27 tháng 9 năm 2021 của Tòa án nhân dân quận Lê Chân xét xử đối với hai bị cáo Trần Thị Cẩm và Trần Thị Thu Hà nên không đề nghị HĐXX xem xét giải quyết.
- Về khoản tiền thu lợi bất chính: Buộc bị cáo Bùi Thị Thu H phải nộp lại khoản tiền thu lợi bất chính từ việc phạm tội là 276.000 đồng (23.000đ/tờ x 12 tờ) để nộp ngân sách Nhà nước.
Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH về án phí lệ phí của Tòa án: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Sau khi nghe đại diện Viện Kiểm sát luận tội, bị cáo không có ý kiến tranh luận gì và tại lời nói sau cùng bị cáo xin được hưởng mức hình phạt thấp nhất để sớm trở về hòa đồng với xã hội và cải tạo thành công dân tốt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
- Về tố tụng:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Lê Chân, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
- Về căn cứ xác định tội danh và điều luật áp dụng đối với các bị cáo:
[2] Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của các đối tượng khác cùng tham gia trong vụ án ,vật chứng thu giữ, kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác đã được xem xét công khai tại phiên tòa, lời khai đó thể hiện: Trong khoảng thời gian từ tháng 4/2019 đến tháng 6/2020, Trần Thị Cẩm mặc dù biết rõ không có thẩm quyền khám, cấp giấy chứng nhận sức khoẻ nhưng vẫn nhiều lần thực hiện hành vi làm giả giấy chứng nhận sức khoẻ bằng cách ký tên mình, sử dụng con dấu của Trạm y tế phường Phù Liễn, quận Kiến An, Hải Phòng đóng dấu khống không đúng quy định của Bộ Y tế cụ thể Cẩm khai đã làm 110 giấy chứng nhận sức khỏe và bán cho Bùi Thị Thu H với giá 7.000 đồng/tờ để hưởng lợi. Bùi Thị Thu H khai đã mua của Cẩm 60 tờ giấy chứng nhận sức khoẻ với giá là 7.000 đồng/tờ, sau đó bán lại cho Trần Thị Thu Hà với giá là 30.000đồng/ tờ, hưởng lợi 23.000đ/tờ. Trần Thị Thu Hà khai mua lại từ Bùi Thị Thu H 80 giấy chứng nhận sức khỏe với giá 30.000đ/tờ để bán kiếm lời với giá 100.000 đồng/1 tờ, bị cáo Trần Thị Thu Hà đã bán được 68 giấy chứng nhận sức khỏe, khi đang bán giấy chứng nhận sức khỏe thứ 69 thì bị Công an phường Hàng Kênh phát hiện cùng vật chứng là 12 giấy chứng nhận sức khỏe vào hồi 14 giờ 45 phút ngày 07/9/2020 tại khu vực ngõ 56/46 Lạch Tray, phường Hàng Kênh, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng. HĐXX nhận định lời khai của các bị cáo có sự mâu thuẫn nhau về số lượng giấy chứng nhận sức khỏe mà các bị cáo tham gia làm giả và bán cho người khác ( Cẩm khai đã làm 110 tờ giấy khám sức khỏe bán cho Bùi Thị Thu H; Trần Thị Thu Hà khai đã mua lại 80 giấy khám sức khỏe từ Bùi Thị Thu H, song Bùi Thị Thu H khai đã mua của Cẩm 60 tờ giấy khám sức khỏe và bán lại cho Trần Thị Thu Hà là 60 tờ). Xét thấy ngoài lời khai của các bị cáo thì không còn tài liệu, chứng cứ nào khác chứng minh, nên chỉ đủ cơ sở kết luận Bùi Thị Thu H cùng với Trần Thị cẩm và Trần Thị Thu Hà thực hiện hành vi làm giả và bán 12 giấy chứng nhận sức khỏe cho người khác để kiếm lời. Hành vi của bị cáo Bùi Thị Thu H đã thỏa mãn yếu tố cấu thành tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” theo quy định tại Điều 341 BLHS với vai trò đồng phạm.
[3] Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát kết luận bị cáo Bùi Thị Thu H phạm tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” với tình tiết định khung hình phạt: “Làm 06 tài liệu hoặc giấy tờ khác trở lên” theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 341 Bộ luật hình sự là có cơ sở và đúng pháp luật.
[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến hoạt động bình thường và uy tín của cơ quan Nhà nước trong lĩnh vực quản lý hành chính về các loại tài liệu, xâm hại đến trật tự quản lý hành chính, làm mất an ninh trật tại địa phương. Bị cáo biết được hành vi làm giả tài liệu giả của cơ quan, tổ chức là vi phạm pháp luật, tuy nhiên vẫn thực hiện nên cần phải áp dụng hình phạt nghiêm, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng răn đe, giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung.
- Về vai trò của bị cáo trong vụ án: Vụ án có đồng phạm là đồng phạm giản đơn, trong đó các bị cáo cùng thực hiện hành vi làm giả và bán giấy chứng nhận sức khỏe cho người khác để kiếm lời, cần căn cứ các Điều 17 và 58 của Bộ luật Hình sự để quyết định hình phạt tương xứng đối với bị cáo.
- Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Trong khoảng thời gian từ tháng 4/2019 đến tháng 6/2020 Bị cáo Bùi Thị Thu H khai đã 02 lần mua của Trần Thị Cẩm 60 tờ giấy chứng nhận sức khoẻ sau đó bán lại cho Trần Thị Thu Hà. Đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “ phạm tội 02 lần trở lên” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
[7] Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Nhân thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; tại giai đoạn điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, sau khi phạm tội bị cáo ra đầu thú; gia đình bị cáo thuộc diện gia đình có công với cách mạng (bố đẻ bị cáo là thương binh, Chồng bị cáo được tặng giấy khen…được chính quyền địa phương xác nhận). Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Cần áp dụng để giảm nhẹ cho bị cáo một phần khi quyết định hình phạt.
[8] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 4 Điều 341 Bộ luật Hình sự thì ngoài hình phạt chính bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[9] Về xử lý vật chứng: Vật chứng của vụ án đã được xử lý tại Bản án số 107/2021/HS-ST ngày 27 tháng 9 năm 2021 của Tòa án nhân dân quận Lê Chân xét xử đối với hai bị cáo Trần Thị Cẩm và Trần Thị Thu Hà nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[10] Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a khoản 3 Điều 341; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58 ; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Bùi Thị Thu H 42 (Bốn mươi hai) tháng tù về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án. Bị cáo được trừ thời gian đã tạm giữ từ ngày 07/01/2022 đến ngày 14/01/2022.
Căn cứ khoản 4 Điều 123 Bộ luật Tố tụng hình sự: Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị cáo không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm bị cáo đi chấp hành án phạt tù.
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Buộc bị cáo Bùi Thị Thu H phải nộp lại số tiền 276.000 đồng (Hai trăm bảy mươi sáu ngàn đồng) là tiền thu lợi bất chính từ việc phạm tội để nộp Ngân sách Nhà nước.
Về án phí: : Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Bùi Thị Thu H phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách Nhà nước.
Về quyền kháng cáo: Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7,7a và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức số 60/2022/HS-ST
Số hiệu: | 60/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/07/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về