Bản án về tội làm giả tài liệu của cơ quan tổ chức số 446/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ X

BẢN ÁN 446/2022/HS-PT NGÀY 23/05/2022 VỀ TỘI LÀM GIẢ TÀI LIỆU CỦA CƠ QUAN TỔ CHỨC

Ngày 23 tháng 05 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố X xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 205/2022/TLPT-HS ngày 11/03/2022 do có kháng cáo của bị cáo Đỗ Văn Y đối với bản án hình sự sơ thẩm số 11/2022/HS-ST ngày 12/01/2022 của Tòa án nhân dân quận X– X.

- Bị cáo kháng cáo: Đỗ Văn Y, sinh năm 1992; ĐKHKTT: thôn Đa Hòa – xã Bình Minh – huyện Khoái Châu – tỉnh Hưng Yên; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đỗ Thành T và bà Đào Thị T1; Vợ là Nguyễn Thị T1, có 01 con; Tiền án, tiền sự: Không; Hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. (Có mặt)

* Người bào chữa cho bị cáo Đỗ Văn Y: Ông L D – Luật sư Công luật TNHH L – Đoàn Luật sư X. (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo bản án sơ thẩm, nội dung vụ án như sau: Vợ chồng Đỗ Văn Y và Nguyễn Thị T1 quê ở thôn Đa Hòa, xã Bình Minh, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên đến X làm ăn và thuê nhà ở tại: Số 35 Ngõ 299, Ngách 27 Đại Mỗ, quận Nam Từ Liêm, thành phố X.

Tháng 11 năm 2020, Y biết Đỗ Thị Giang, sinh năm 1998 cùng thôn Đa Hòa, xã Bình Minh, huyện Khoái Châu có bán giấy khám sức khỏe của Bệnh viện Bạch Mai, Y nảy sinh ý định mua giấy khám sức khỏe của Giang để bán lại kiếm lời. Y liên hệ với Giang hỏi “có giấy khám sức khỏe không”, Giang bảo có thì Y nói: “để lại cho anh đi bán nhé”, Giang đồng ý. Tối một ngày trong tháng 11 năm 2020, Y cùng vợ là T1 đến nhà Giang mua 05 tờ giấy khám sức khỏe với giá 60.000 đồng/1 tờ, Y trả cho Giang 300.000 đồng. Các giấy khám sức khỏe đều để trống phần thông tin người đề nghị khám bệnh, mục người khám và người kết luận có chữ ký của BSCK như Trần Văn Khoa, Khổng Thị Thúy Diệu, Phạm Thị Hương Giang, Nguyễn Đình Thái; BSCKI như Phạm Quốc Thái, Nguyễn Thị Yến, Vũ Thanh Hoa; BSCKII như Trần Văn Hoàng…, đóng các dấu “Âm tính (-)”, “X- Quang tim phổi bình thường” (màu đỏ), phần kết luận có đóng dấu “Hiện đủ sức khỏe để học tập - công tác” (màu tím) và phần người kết luận có chữ ký của bác sỹ, có đóng dấu tròn đỏ chữ “Bệnh viện Bạch Mai”. Y mang 05 giấy khám sức khỏe lên X rồi đăng tin bán giấy khám sức khỏe trên trang cá nhân hoặc hội nhóm mạng xã hội facebook và để lại số điện thoại liên lạc của mình để có ai hỏi mua thì liên hệ. Vào khoảng đầu tháng 12 năm 2020, chị Lê Thị Th, sinh năm 1993; ĐKHKTT: thôn Nam, xã Đông Phương, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình có nhu cầu làm hồ sơ xin việc. Qua tìm kiếm thông tin trên mạng, chị Th liên hệ với Y thì gặp T1, Th hỏi mua 02 giấy khám sức khỏe với giá 65.000 đồng/1 tờ. Y đưa cho T1 02 tờ giấy khám sức khỏe mang đến bán cho Th lấy số tiền 130.000 đồng. Còn lại 03 tờ giấy khám sức khỏe, khoảng 01 tuần sau, có một người phụ nữ không quen liên hệ với T1 hỏi mua, Y mang đến khu vực Trung tâm thương mại Aeon Mall Xbán cho người đó với giá 100.000 đồng/1 tờ, được 300.000 đồng.

Ngày 03/01/2021, một người nam giới không quen biết đặt mua của Y 18 tờ giấy khám sức khỏe, Y đồng ý và báo giá 100.000 đồng/1 tờ, người nam giới hẹn giao tại trước cổng Trường Cao đẳng Y tế X, Y nói cho T1 biết. Sau đó, Y gọi điện cho Đỗ Thị Giang đặt mua 18 tờ giấy khám sức khỏe của Bệnh viện Bạch Mai với giá 50.000 đồng/1 tờ, hẹn giao ở Trung tâm thương mại Aeon Mall Long Biên. Vì bận trông con nên T1 không đi cùng Y để lấy giấy khám sức khỏe. Khoảng 21 giờ cùng ngày, Y đến chỗ hẹn với Giang và nhận được 18 tờ giấy khám sức khỏe, thanh toát hết 900.000 đồng, mang về phòng trọ. Đến khoảng 11 giờ ngày 04/01/2021, Y đi xe máy BKS:

89K7-1797 mang 18 tờ giấy khám sức khỏe đến khu vực trước cổng Trường Cao đẳng Y tế Xđịa chỉ: Số 39 Nguyễn Viết Xuân, phường Quang Trung, quận X, chưa giao được cho người mua thì bị Tổ công tác Công an phường Quang Trung, quận Xtiến hành kiểm tra hành chính. Vật chứng thu giữ của Y gồm:

- 18 tờ giấy khám sức khỏe để trong 01 túi nilon màu trắng nhãn hiệu My Clear, bỏ trống thông tin người khám bệnh, có dấu đỏ của “Bệnh viện Bạch Mai” và có chữ ký của các bác sỹ (BSCK, BSCKI, BSCKII) các khoa khám bệnh.

- 01 điện thoại di động Iphone vỏ bằng kim loại màu hồng, không lắp sim, số imei 355421072550998 (đã qua sử dụng).

- 01 xe máy Honda Wave S màu sơn đen, BKS: 89K7-7197, số máy 043E- 0601580, số khung: 431899632X (đã qua sử dụng).

Tổ công tác đã đưa Đỗ Văn Y cùng vật chứng về trụ sở để làm việc. Tại Công an phường Quang Trung, Y đã đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung trên. Công an phường Quang Trung đã bàn giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Xđể điều tra xử lý.

Ngày 05/01/2021, chị Lê Thị Th đã giao nộp cho Công an phường Quang Trung, quận X01 tờ giấy khám sức khỏe có dấu của Bệnh viện Bạch Mai và chữ ký của các bác sỹ khám, mục kết luận có chữ ký của GS.TS Nguyễn Quang T và được đóng dấu tròn của Bệnh viện Bạch Mai; chị Th khai 01 tờ giấy khám sức khỏe nữa chị đã xé bỏ do điền thông tin cá nhân sai nội dung.

Cơ quan điều tra đã tiến hành thu thập mẫu dấu của Bệnh viện Bạch Mai và mẫu chữ ký của GS.TS.Nguyễn Quang T để phục vụ việc giám định tài liệu.

Ngày 28/01/2021, Cơ quan điều tra quyết định trưng cầu Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố X giám định chữ ký, mẫu dấu đối với những tài liệu đã thu giữ của Đỗ Văn Y, Lê Thị Th nêu trên. Tại bản Kết luận giám định số 1824/KLGĐ-KL09- Đ3 ngày 04/3/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố X, kết luận:

“1. Hình dấu tròn “BỆNH VIỆN BẠCH MAI” trên các mẫu cần giám định ký hiệu từ A1 đến A19 với hình dấu tròn “BỆNH VIỆN BẠCH MAI” trên mẫu so sánh ký hiệu M1 không phải do cùng một con dấu đóng ra.

2. Chữ ký đứng tên Nguyễn Quang T trên mẫu cần giám định ký hiệu A19 với chữ ký đứng tên Nguyễn Quang T trên mẫu so sánh ký hiệu M2 không phải là chữ do cùng một người ký ra”.

Ngày 16/7/2021, Cơ quan điều tra tiếp tục trưng cầu giám định chữ ký, chữ viết đối với các tài liệu thu giữ so sánh với chữ ký, chữ viết của Lê Thị Th, Đỗ Thị Giang, Đỗ Văn Y và Nguyễn Thị T1. Tại bản Kết luận giám định số 6788/KLGĐ- PC09-Đ3 ngày 16/9/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố X, kết luận:

“1. Chữ viết phần nội dung thông tin người đề nghị khám sức khỏe, chữ ký, chữ viết dòng họ tên Lê Thị Th dưới chữ ký trên mẫu cần giám định ký hiệu A1 với chữ viết, chữ ký đứng tên Lê Thị Th trên các mẫu so sánh ký hiệu M1, M2 là chữ do cùng một người viết và ký ra.

2. Không đủ cơ sở kết luận chữ viết, chữ ký từ phần “I. Khám thể lực” đến phần “Người kết luận” trên các mẫu cần giám định ký hiệu từ A1 đến A19 với chữ viết, chữ ký đứng tên Đỗ Thị Giang trên mẫu so sánh ký hiệu M3 có phải do cùng một người viết và ký ra hay không.

3. Không đủ cơ sở kết luận chữ viết, chữ ký từ phần “I. Khám thể lực” đến phần “Người kết luận” trên các mẫu cần giám định ký hiệu từ A1 đến A19 với chữ viết, chữ ký đứng tên Đỗ Văn Y trên mẫu so sánh ký hiệu từ M4 đến M6 có phải do cùng một người viết và ký ra hay không.

4. Không đủ cơ sở kết luận chữ viết, chữ ký từ phần “I. Khám thể lực” đến phần “Người kết luận” trên các mẫu cần giám định ký hiệu từ A1 đến A19 với chữ viết, chữ ký đứng tên Nguyễn Thị T1 trên mẫu so sánh ký hiệu từ M7 đến M9 có phải do cùng một người viết và ký ra hay không”.

Ngày 29/9/2021, Cơ quan điều tra tiếp tục tiến hành trưng cầu Viện Khoa học hình sự - Bộ Công an giám định chữ viết, chữ ký mang tên Đỗ Thị Giang, Đỗ Văn Y và Nguyễn Thị T1 trên các mẫu so sánh thu giữ của Đỗ Thị Giang, Đỗ Văn Y và Nguyễn Thị T1. Tại bản Kết luận giám định số 7317/KLGĐ-C09-P5 ngày 24/11/2021 của Viện Khoa học hình sự - Bộ Công an, kết luận:

“5.1. Những người có mẫu chữ viết mang tên Đỗ Văn Y, Nguyễn Thị T1 trên các mẫu so sánh ký hiệu từ M2 đến M11 không viết ra chữ viết bằng mực màu đen tại mục “II. KHÁM LÂM SÀNG” trên các mẫu cần giám định ký hiệu từ A1 đến A18; chữ viết tại các mục “II. KHÁM CẬN LÂM SÀNG” trên các mẫu cần giám định ký hiệu từ A1 đến A18; “I. KHÁM THỂ LỰC”, “III. KHÁM CẬN LÂM SÀNG” trên mẫu cần giám định ký hiệu A19.

5.2. Không đủ cơ sở kết luận những người có mẫu chữ viết mang tên Đỗ Văn Y, Nguyễn Thị T1 trên các mẫu so sánh ký hiệu từ M2 đến M11 có viết ra chữ viết bằng mực màu xanh tại mục “II. KHÁM CẬN LÂM SÀNG” trên các mẫu cần giám định ký hiệu từ A1 đến A18 hay không.

5.3. Không đủ cơ sở kết luận những người có mẫu chữ viết mang tên Đỗ Thị Giang trên mẫu so sánh ký hiệu M1 có viết ra chữ “I. KHÁM THỂ LỰC”, “II. KHÁM LÂM SÀNG”, “III. KHÁM CẬN LÂM SÀNG” trên mẫu cần giám định ký hiệu từ A1 đến A19 hay không.

5.4. Không đủ cơ sở kết luận những người có mẫu chữ viết mang tên Đỗ Thị Giang, Đỗ Văn Y, Nguyễn Thị T1 trên các mẫu so sánh ký hiệu từ M1 đến M11 có ký ra chữ ký tại cột “Họ tên, chữ ký của Bác sỹ” trên các mẫu cần giám định ký hiệu từ A1 đến A18 hay không”.

Ngày 28/09/2021, Đỗ Văn Y đã nộp cho Cơ quan điều tra số tiền thu lợi bất chính 430.000 đồng thu từ việc bán 05 giấy khám sức khỏe giả.

Trong giai đoạn điều tra, các bị cáo Đỗ Văn Y và Nguyễn Thị T1 đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại bản Cáo trạng số 346/CT-VKS-HĐ ngày 30/11/2021 của Viện kiểm sát nhân dân quận X, thành phố X truy tố các bị cáo: Đỗ Văn Y và Nguyễn Thị T1 về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” theo điểm a Khoản 3 Điều 341 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại bản án số 11/2022/HSST ngày 12/01/2022 của Tòa án nhân dân X– X đã quyết định:

Tuyên bố: Đỗ Văn Y phạm tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”.

Áp dụng điểm a Khoản 3 Điều 341; điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; điểm g Khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Đỗ Văn Y 36 tháng tù. Hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Bản án còn quyết định hình phạt với bị cáo khác, xử lý vật chứng, án phí.

Không đồng ý với bản án sơ thẩm, Đỗ Văn Y có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa, Đỗ Văn Y vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và khai nhận hành vi phạm tội.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố X có quan điểm giải quyết vụ án đã đề nghị:

- Đơn kháng cáo của bị cáo Đỗ Văn Y trong thời hạn luật định nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận theo trình tự phúc thẩm.

- Về nội dung vụ án: Vợ chồng Đỗ Văn Y, Nguyễn Thị T1 biết Đỗ Thị Giang có bán Giấy khám sức khỏe gỉa của bệnh viện Bạch Mai. Y và T1 đến nhà Giang để mua 05 Giấy khám sức khỏe giả với giá 60.000 đồng/ tờ rồi mang lên phòng trọ ở X đăng tin trên trang cá nhân, nhóm mạng xã hội rồi sau đó Y, T1 đã bán 05 tờ giấy khám sức khỏe cho người khác thu lợi bất chính số tiền 430.000 đồng. Sau đó có người đặt mua giấy tờ giả nên Đỗ Văn Y lại đi mua 18 giấy tờ giả thì bị bắt. Hành vi của Đỗ Văn Y đã bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” là có căn cứ. Cấp sơ thẩm đã căn cứ hành vi phạm tội, xem xét đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với bị cáo để xử phạt Đỗ Văn Y 36 tháng tù là có căn cứ. Tại Cấp phúc thẩm không có tình tiết gì mới nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

Đề nghị: Căn cứ điểm a Khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng Hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đỗ Văn Y. Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 11/2022/HSST ngày 12/01/2022 của Tòa án nhân dân X– X.

Tuyên bố: Đỗ Văn Y phạm tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”.

Áp dụng điểm a Khoản 3 Điều 341; điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; điểm g Khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Đỗ Văn Y 36 tháng tù. Hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

- Luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét: Bị cáo khai báo thành khẩn, nhân thân chưa có tiền án, tiền sự; bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, con nhỏ, bố mẹ bị cáo nhiều tuổi, ốm đau, bà nội bị đột quỵ. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] - Về tố tụng: Đơn kháng cáo của bị cáo Đỗ Văn Y trong thời hạn luật định nên Hội đồng xét xử chấp nhận theo trình tự phúc thẩm.

[2] - Về nội dung: Căn cứ vào lời khai của Đỗ Văn Y, Nguyễn Thị T1 phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định cùng các tài liệu chứng cứ có đủ căn cứ kết luận: Vợ chồng Đỗ Văn Y và Nguyễn Thị T1 biết Đỗ Thị Giang là người cùng thôn có bán giấy khám sức khỏe giả của bệnh viện Bạch Mai nên đã liên hệ hỏi mua để bán lại kiếm lời. Tối một ngày trong tháng 11 năm 2020 Y và T1 đến nhà Giang mua 05 tờ Giấy khám sức khỏe giả với giá 60.000 đồng/ tờ rồi mang lên phòng trọ ở X đăng tin bán trên trang cá nhân, nhóm mạng xã hội. Khoảng đầu tháng 12 năm 2020 chị Lê Thị Th liên hệ gặp T1, Th hỏi T1 mua 02 Giấy khám sức khỏe giá 65.000 đồng/ tờ, Y đưa cho T1 02 tờ Giấy khám sức khỏe mang đến bán cho chị Th lấy số tiền 130.000 đồng. Khoảng 1 tuần sau, một người phụ nữ không quen biết liên hệ với T1 hỏi mua 03 tờ Giấy khám sức khỏe giả, Y mang đến khu vực Trung tâm thương mại Aeon Mall Xbán cho người đó với giá 100.000 đồng/tờ, được 300.000 đồng. Ngày 03/01/2021 có người nam giới không quen biết đặt mua của Y 18 tờ giấy khám sức khỏe, Y đồng ý và báo giá 100.000 đồng/tờ Y nói cho T1 biết với đặt mua của Giang 18 tờ giấy khám sức khỏe giả của Bệnh viện Bạch Mai với giá 50.000 đồng/ tờ. Khoảng 21 giờ cùng ngày, Y đến Trung tâm thương mại Aeon Mall Long Biên gặp Giang nhận 18 tờ giấy Khám sức khỏe giả, thanh toán hết 900.000 đồng. Đến khoảng 11 giờ ngày 04/01/2021 Y mang 18 tờ giấy Khám sức khỏe trên đến khu vực trước cổng trường Cao đẳng y tế Xở số 39 Nguyễn Viết Xuân – phường Quang Trung – X– X chưa giao được cho người mua thì bị kiểm tra hành chính, bắt quả tang. Hành vi của Đỗ Văn Y, Nguyễn Thị T1 đã bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” là có căn cứ.

[3] - Xét kháng cáo của bị cáo Đỗ Văn Y, Hội đồng xét xử nhận thấy hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến sự hoạt động của các cơ quan nhà nước. Bị cáo biết rõ giấy khám sức khỏe Giang bán là giả. Khi có người hỏi mua Y đã cùng T1 đến nhà Giang mua 05 tờ giấy khám sức khỏe giả để bán kiếm lời. Sau đó Y lại đặt mua, nhận giấy tờ và mang bán đối với 18 giấy tờ giả. Bị cáo Y phải chịu trách nhiệm Hình sự đối với 23 giấy tờ giả. Tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ tính chất, mức độ hành vi phạm tội và xem xét các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự như bị cáo phạm tội 02 lần trở lên; tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, tự nguyện nộp tiền thu lợi bất chính để quyết định mức hình phạt 36 tháng tù là có căn cứ. Tại phiên tòa phúc thẩm không có tình tiết gì mới nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] – Về án phí: Do kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a Khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng Hình sự.

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đỗ Văn Y. Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 11/2022/HSST ngày 12/01/2022 của Tòa án nhân dân quận X– X.

Tuyên bố: Đỗ Văn Y phạm tội “Làm giả tài liệu của cơ quan tổ chức”.

Áp dụng điểm a Khoản 3 Điều 341; điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; điểm g Khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Đỗ Văn Y 36 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

- Về án phí: Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí lệ phí Tòa án.

Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí Hình sự phúc thẩm. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

18
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội làm giả tài liệu của cơ quan tổ chức số 446/2022/HS-PT

Số hiệu:446/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:23/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về