TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 44/2023/HS-PT NGÀY 16/01/2023 VỀ TỘI LÀM GIẢ TÀI LIỆU CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC
Ngày 16 tháng 01 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đưa ra xét xử phúc thẩm trực tuyến công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 665/2022/TLPT-HS ngày 22 tháng 9 năm 2022 đối với bị cáo Bùi T1 S.
Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 19/2022/HS-ST ngày 11 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng.
- Bị cáo có kháng cáo:
Bùi T1 S; sinh năm 1983 tại Thành phố Đà Nẵng; nơi ĐKHKTT: Tổ 27B Đường M, quận S, Thành phố Đ; nơi cư trú: tổ 45, khu phố 6, phường 12, quận G, Thành phố H; nghề nghiệp: Thợ sắt; trình độ học vấn: Lớp 12/12; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Bùi T1 S (đã chết) và bà Trần Thị Lệ C, sinh năm 1954, hiện đang sống như vợ chồng với Nguyễn Thị L, sinh năm 1983 và có 01 con chung tên Bùi T1 D, sinh năm 2011; tiền án, tiền sự: Không;
Nhân thân:
- Bản án số 148/HSST ngày 09/12/2002 bị Toàn án nhân dân Thành phố Đà Nẵng xử phạt 04 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tội “Cướp giật tài sản”, tội “Cố ý gây thương tích”;
- Năm 2019 bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương truy tố về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” nhưng sau đó bỏ trốn, đã có lệnh truy nã.
Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 27/3/2020, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Lâm Đồng (có mặt tại điểm cầu thành phần đặt tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng).
Ngoài ra trong vụ án còn có bị cáo Đào Mai T và các bị cáo khác không kháng cáo, không bị kháng nghị; người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không kháng cáo nên Tòa án không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Do cần tiền tiêu xài cá nhân, nên đầu tháng 02/2020 Đào Mai T đã bàn bạc, thống nhất với Lê Thành T1 cùng làm giấy tờ giả (gồm: giấy chứng minh nhân dân, giấy phép lái xe, sổ hộ khẩu...). Sau đó sử dụng các giấy tờ giả này để thuê xe ô tô rồi đem xe đi tiêu thụ.
Sau khi thống nhất, T vào mạng xã hội Facebook) tìm và liên hệ người (không rõ nhân thân lai lịch) nhận làm giấy tờ giả. Sau đó T gửi ảnh của T1 làm một giấy chứng minh nhân dân giả, một giấy phép lái xe ô tô B2 giả có ảnh của T1 nhưng mang tên giả là Nguyễn Văn N với giá 3.500.000đ. Ngày 10/02/2020, T đã nhận được bộ giấy tờ giả do người giao hàng thuê (không rõ nhân thân lai lịch) chuyển đến.
Vụ thứ nhất: Xe ô tô Toyota Vios biển kiểm soát 60A-740xx.
Sau khi có được bộ giấy tờ trên thì T lên mạng Facebook tìm cơ sở cho thuê xe ô tô tự lái. T tìm được cơ sở cho thuê xe tự lái ở ấp Lộc Hòa, xã T, huyện T, tỉnh Đ của anh Huỳnh Linh T1, HKTT: 97/3 ấp Lộc Hòa, xã T, huyện T, tỉnh Đ. T lấy số điện thoại của Anh T1 đưa cho T1 để liên hệ thuê xe ô tô. Ngày 10/02/2020, T1 đi xe mô tô hiệu Exciter biển kiểm soát 60B8-506.xx, chiếc xe mô tô này do T đưa cho T1 18.000.000đ để mua đến cơ sở của Anh T1 rồi đặt vấn đề thuê xe ô tô. Do không còn xe nên Anh T1 đã liên hệ với anh Nguyễn Ngọc H1, HKTT: Ấp Tân Thịnh, xã Đồi 61, huyện T, tỉnh Đ để cho thuê xe. Anh H đồng ý và mang xe ô tô hiệu Vios, màu trắng biển kiểm soát 60A-740xx đến cơ sở cho thuê xe của T1. Anh T1 đã làm hợp đồng cho T1 thuê xe ô tô hiệu Toyota Vios biển kiểm soát 60A-740xx (xe của anh H), thời gian thuê từ ngày 10/02/2020 đến 12/02/2020 với giá 2.500.000đ. T1 để xe mô tô Exciter biển kiểm soát 60B8-506.xx lại cơ sở của Anh T1 để tạo niềm tin.
Sau khi thuê được xe ô tô Toyota Vios biển kiểm soát 60A-740xx của anh H, T liên hệ đặt làm 01 giấy chứng minh nhân dân giả có ảnh của T1 nhưng mang tên giả là Nguyễn Ngọc H1 chủ xe. Sau đó T và T1 điều khiển xe ô tô trên đi Phan Thiết chơi, ngày 11/02/2020 thì cả hai đi về Đồng Nai. Khi về đến Bệnh viện Long Khánh, T liên hệ với một người (hiện không rõ nhân thân lai lịch) để nhờ người đó dẫn đi cầm xe ô tô ở tiệm cầm đồ “Minh Thuân” tại ấp Sông Mây, xã Bắc S1, huyện T, tỉnh Đ do anh Lê Minh T2, HKTT: Thôn Tây Lạc, ấp An Chu, xã Bắc S1, huyện T, tỉnh Đ làm chủ. T1 và T đã cầm cố xe ô tô Toyota Vios biển kiểm soát 60A-740xx với số tiền 200.000.000đ, T lấy 100.000.000đ, T1 lấy 50.000.000đ, người bạn của T lấy 50.000.000đ.
Bản kết luận định giá tài sản ngày 06/3/2020 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thuộc Uỷ ban nhân dân huyện T, tỉnh Đ kết luận chiếc xe ô tô Toyota Vios biển kiểm soát 60A-740xx có giá trị là 410.000.000đ.
Vật chứng Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện T, tỉnh Đ thu giữ:
- 01 (một) chiếc xe mô tô Exciter biển kiểm soát 60B8-506.xx và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe 60B8-506.xx mang tên Phạm T1 Phước.
- 01 xe ô tô Toyota Vios biển kiểm soát 60A-740xx. Quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T, tỉnh Đ đã ra quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trả lại cho chủ sở hữu là anh Nguyễn Ngọc H1.
Trách nhiệm dân sự:
Sau khi nhận lại được chiếc xe ô tô Toyota Vios biển kiểm soát 60A- 740xx anh Nguyễn Ngọc H1 không có yêu cầu gì khác.
Bị hại anh Huỳnh Linh T1, HKTT: 97/3 ấp Lộc Hòa, xã T, huyện T, tỉnh Đ sau khi nhận lại xe không có yêu cầu gì.
Anh Lê Minh T2 là người nhận cầm cố chiếc xe ô tô Toyota Vios biển kiểm soát 60 -740xx yêu cầu bị cáo T và T1 phải trả lại số tiền 200.000.000đ. Hiện các bị cáo chưa bồi thường số tiền này.
Trong vụ này tài sản chiếm đoạt của Đào Mai T và Lê Thành T1 là 410.000.000đ.
Vụ thứ hai: Xe ô tô Mazda3 biển kiểm soát 60A-348xx:
Vào ngày 14/02/2020, Đào Mai T mua 01 xe mô tô hiệu Honda Airblade biển kiểm soát 60B1-250xx (xe có giấy chứng nhận đăng ký xe mang tên Huỳnh Đức T2, địa chỉ: 7/27 KP4, phường Thống Nhất, thành phố B, tỉnh Đ) với giá 14.000.000đ. Sau đó nhờ Nguyễn Hữu Đăng K làm 01 giấy chứng minh nhân dân, 01 giấy phép lái xe B2 mang ảnh của T1 nhưng với tên giả là Huỳnh Đức T2 (giống như T1 tin trong giấy chứng nhận đăng ký của xe Honda Airblade biển kiểm soát 60B1-250xx) với giá 2.500.000đ. Ngày 26/02/2020, T1 điều khiển xe mô tô hiệu Honda Airblade biển kiểm soát 60B1-250xx đến cơ sở thuê xe ô tô tự lái Thiên Ý Đạt, ở địa chỉ: số 242 Phan Trung, khu phố 2, phường T, thành phố B, tỉnh Đ do anh Trần Ý Đ, sinh năm 1987 và vợ là Lê Thị Kim C, sinh năm 1980, địa chỉ: 145/5 khu phố 2, phường T, thành phố B, tỉnh Đ làm chủ cơ sở để thuê xe ô tô. Khi làm hợp đồng thuê xe ô tô, T1 đưa ra giấy chứng minh nhân dân, giấy phép lái xe hạng B2 giả (được dán ảnh của T1) mang tên Huỳnh Đức T2 và để lại xe mô tô hiệu Honda Airblade biển kiểm soát 60B1- 250xx kèm theo giấy chứng nhận đăng ký mang tên Huỳnh Đức T2 cho cơ sở Thiên Ý Đ để thuê 01 xe ô tô Mazda3 màu trắng, biển kiểm soát 60A-348xx, với giá thuê xe là 1.700.000đ/ngày.
Sau khi T1 thuê được xe Mazda3 biển kiểm soát 60A-348xx thì T liên hệ lên mạng tìm thì có một người lạ (không rõ lai lịch, địa chỉ) đồng ý mua xe Mazda3, biển kiểm soát 60A-348xx với giá 95.000.000đ. Bán được xe trên thì T1 lấy 54.000.000đ, T lấy 41.000.000đ. Sau đó T đã tiêu hủy giấy chứng minh thư, giấy phép lái xe giả (có dán ảnh T1 mang tên Huỳnh Đức T2).
Bản kết luận định giá tài sản số 166 ngày 27/4/2020 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thuộc UBND thành phố Biên Hòa kết luận chiếc xe ô tô xe Mazda3, biển kiểm soát 60A - 348xx có giá trị là 575.200.000đ.
Chiếc xe Mazda3, biển kiểm soát 60A-348xx Cơ quan điều tra đã T1 báo truy tìm vật chứng nhưng chưa thu hồi được.
Trách nhiệm dân sự:
- Đối với chiếc xe Mazda3, biển kiểm soát 60A-348xx không thu hồi được, bị hại là anh Trần Ý Đ yêu cầu các bị cáo phải bồi thường chiếc xe cho anh Đạt. 5. Gia đình Lê Thành T1 đã tự nguyện trả cho anh Trần Y Đ số tiền - 150.000.000đ.
Trong vụ này tài sản chiếm đoạt của Đào Mai T và Lê Thành T1 là 575.200.000đ.
Nguyễn Hữu Đăng K làm 01 giấy chứng minh nhân dân, 01 giấy phép lái xe B2 mang ảnh của T1 nhưng với tên giả là Huỳnh Đức T2 (giống như T1 tin trong giấy chứng nhận đăng ký của xe Honda Airblade biển kiểm soát 60B1- 250xx. Đăng K nhờ S1 làm giá 3.000.000đ, báo T từ 5-6.000.000đ.
Vụ thứ ba: Xe ô tô hiệu Kia Rondo biển kiểm soát 51F-991.xx (biển kiểm soát 51G-862xx):
Vào tháng 3/2020, T lấy hình ảnh của Lê Phan T1 H2 (là bạn của T1) rồi đặt Nguyễn Hữu Đăng K làm giả 01 chứng minh nhân dân, 01 giấy phép lái xe B2 mang tên Nguyễn Duy N1, sinh năm 1993, HKTT: Tổ 2A1, khu phố 2, thị trấn Trảng Bom, huyện T, tỉnh Đ với giá 6.000.000đ. T1 đưa cho H2 15.000.000đ để H2 đi mua 01 xe mô tô hiệu Yamaha Sirius, biển kiểm soát 60B8-776xx (xe có giấy chứng nhận đăng ký mang tên Nguyễn Văn P1, sinh năm 1982, HKTT: Tổ 17 Trung Tâm, xã ThAnh B1, huyện T, tỉnh Đ). Sau khi có giấy tờ giả (là giấy chứng minh nhân dân, giấy phép lái xe B2 mang tên Nguyễn Duy N1) thì T đưa các giấy tờ giả đó cho H2 để H2 đi thuê xe ô tô.
Ngày 07/3/2020, H2 điều khiển xe mô tô Yamaha Sirius biển kiểm soát 60B8-776xx đến cơ sở cho thuê xe ô tô tự lái Thiên Ý Đạt (địa chỉ: 242 Phan Trung, khu phố 2, phường T, thành phố B, tỉnh Đ), rồi sử dụng giấy chứng minh nhân dân giả và giấy phép lái xe giả nêu trên làm hợp đồng thuê 01 chiếc xe ô tô hiệu Kia Rondo màu trắng, biển kiểm soát 51F-99.163. H2 để xe mô tô hiệu Yamaha Sirius, biển kiểm soát 60B8-77.6xx kèm theo Giấy chứng nhận đăng ký mang tên Nguyễn Văn P1 để làm tin. Sau khi thuê được xe ô tô trên thì H2 T1 báo cho T và T1 biết và hẹn gặp nhau tại Thành phố Hồ Chí Minh để bán xe. T liên hệ với Đăng K và nói “Có chiếc xe ô tô thanh lý trường gà, chủ xe thua cá độ đá gà nên cầm lại xe ô tô cho T rồi bỏ luôn”. T nhờ Đăng K tìm người mua xe. Đăng K không biết chiếc xe trên là tài sản do phạm tội mà có nên nói T mang xe đến gửi tại bãi xe ở số 99 Ngô Nhân Tịnh, phường 2, quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh. Sau đó Đăng K nghi ngờ chiếc xe trên là xe phạm pháp nên điện báo lại cho T đến lấy về mà không môi giới bán cho T nữa thì T nhờ Đăng K mua giúp một bộ bảng số khác để thay vào xe biển kiểm soát 51F-99.163 để cho T đi tránh bị tranh chấp. Khi T chưa đến lấy xe về thì bị Cơ quan Công an phát hiện và thu giữ.
Bản kết luận định giá tài sản số 165 ngày 27/4/2020 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thuộc Uỷ ban nhân dân thành phố B, tỉnh Đ kết luận chiếc xe ô tô hiệu Kia Rondo màu trắng, biển kiểm soát 51F- 991.xx, nhãn hiệu Kia, số máy: G4NAGH332709, số khung: 51A6GC095158 có giá trị là 438.750.000đ.
Ngày 20/5/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Lâm Đồng trưng cầu định giá tài sản đối với chiếc xe biển kiểm soát 51G-862.xx chiếc xe ô tô hiệu Kia Rondo màu trắng, nhãn hiệu Kia, số máy: G4NAGH332709, số khung: 51A6GC095158 trùng với chiếc xe có biển kiểm soát 51F-991.xx mà Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thuộc Uỷ ban nhân dân thành phố B, tỉnh Đ đã định giá. Theo Bản kết luận định giá tài sản số 1139/KL-HĐĐG ngày 27/5/2020 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự tỉnh Lâm Đồng: Chiếc xe ô tô Kia Rondo màu trắng, biển kiểm soát 51G-862xx, nhãn hiệu Kia, số máy:
G4NAGH332709, số khung: 51A6GC095158 tại thời điểm định giá còn 419.264.000đ.
Vật chứng Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T, tỉnh Đ thu giữ:
- 01 (một) xe mô tô hiệu Yamaha Sirius, biển kiểm soát 60B8-776xx và 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe biển kiểm soát 60B8-776xx mang tên Nguyễn Văn P1.
- 01 (một) xe mô tô Honda Airblade biển kiểm soát 60B1-250xx và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mang tên Huỳnh Đức T2.
- 01 (một) USB chứa dữ liệu trích xuất từ camera do bị hại cung cấp (chuyển kèm theo hồ sơ).
- 01 (một) chiếc xe ô tô hiệu Kia Rondo biển kiểm soát 51F-991.xx, biển kiểm soát 51G-862xx, quá trình điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu là anh Trần Ý Đ, địa chỉ: 242 Phan Trung, khu phố 2, phường T, thành phố B, tỉnh Đ.
Trong vụ này tài sản chiếm đoạt của Đào Mai T, Lê Thành T1 và Lê Phan T1 H2 là 419.264.000đ Nguyễn Hữu Đăng K làm giả 01 chứng minh nhân dân, 01 giấy phép lái xe B2 mang tên Nguyễn Duy N1, sinh năm 1993, HKTT: tổ 2A1, khu phố 2, thị trấn Trảng Bom, huyện T, tỉnh Đ. S1 làm với giá khoảng 5-6.000.000đ.
Vụ thứ thứ tư: Xe ô tô Toyota Inova, biển kiểm soát 60A-490.xx:
- Do quen biết với anh Lâm Thanh B1, HKTT: Ấp 2, xã Sông Trầu, huyện T, tỉnh Đ làm nghề kinh doanh dịch vụ cho thuê xe ô tô tự lái, nên một mình Đào Mai T nảy sinh ý định chiếm đoạt xe ô tô của Anh B1. Ngày 08/3/2020, T lấy lý do thuê xe ô tô để đi chơi nên đã đến gặp Anh B1 rồi thuê của Anh B1 01 xe ô tô hiệu Toyota Inova, biển kiểm soát 60A-490.xx. Xe ô tô trên thuộc sở hữu của ông Trương Minh H, địa chỉ: Ấp 5, xã S, huyện T, tỉnh Đ, là chú vợ của Anh B1, ông Hoa giao xe cho Anh B1 để quản lý và sử dụng cho thuê. Anh B1 đồng ý cho T thuê xe với giá 800.000đ/01 ngày, Anh B1 không làm hợp đồng cho thuê xe với T. Khi giao xe thì Anh B1 đưa cho T giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô, giấy kiểm định và bảo hiểm xe (bản chính). Sau đó, T sử dụng xe ô tô mang biển kiểm soát 60A-490.xx trên để chở đồng bọn đi lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Ngày 20/3/2020, Đào Mai T lừa bán xe ô tô Toyota Inova, biển kiểm soát 60A-490.xx cho bà Lý Kim O, HKTT: Ấp Quảng Lộc, xã Q, huyện T, tỉnh Đ, là chủ tiệm cầm đồ Anh Thư với giá 300.000.000đ. T dùng số tiền 203.000.000đ chuộc lại xe ô tô biển kiểm soát 60A-527.xx mà T mượn của anh rể là Triệu Chí T1 (cư trú: Xã Sông Trấu, huyện T, tỉnh Đ) cầm cố cho bà Lý Kim O trước đó, còn lại 97.000.000đ T sử dụng vào mục đích tiêu xài cá nhân. Sau khi phát hiện xe ô tô đã cho T thuê đang do gia đình bà Lý Kim O sử dụng thì Anh B1 làm đơn tố cáo gửi đến Công an huyện T, tỉnh Đ.
Tại bản Kết luận định giá tài sản trong tố tụng ngày 01/7/2020 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện T, tỉnh Đ đã định giá xe ô tô Toyota Inova biển kiểm soát 60A-490.xx là 760.000.000đ.
Vật chứng Cơ quan điều tra thu giữ:
- 01 (một) xe ô tô hiệu Toyota Inova, biển kiểm soát 60A-490.xx.
- 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô hiệu Toyota Inova, biển kiểm soát 60A-490.xx.
- 02 (hai) giấy chứng nhận bảo hiểm.
- 01 (một) đăng kiểm xe ô tô hiệu Toyota Inova, biển kiểm soát 60A 490.xx.
- 01 (một) giấy phép lái xe ô tô tên Trương Thanh H.
Quá trình điều tra Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu các vật chứng thu giữ trên.
- 01 (một) xe ô tô Kia Cerato biển kiểm soát 60A-527.xx, quá trình điều tra xác định anh Triệu Chí T1 là chủ sở hữu cho T mượn, tuy nhiên không biết T đem đi cầm đồ sau đó chuộc lại. Do vậy Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả chiếc xe trên cho anh Triệu Chí T1.
Trách nhiệm dân sự:
- Bị hại anh Lâm Thanh B1, HKTT: Ấp 2, xã S, huyện T, tỉnh Đ, sau khi nhận lại xe không có yêu cầu gì.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án bà Lý Kim O, sinh năm 1985, HKTT: Ấp Quảng Lộc, xã Q, huyện T, tỉnh Đ yêu cầu T bồi thường số tiền 300.000.000đ là tiền mà T bán xe và 100.000.000đ là tiền mà T đã mượn của bà O trước đó.
Trong vụ này tài sản chiếm đoạt của Đào Mai T là 760.000.000đ.
Cũng trong tháng 3/2020, Đào Mai T cũng đã liên hệ Nguyễn Hữu Đăng K làm giả 03 bộ giấy tờ (gồm: chứng minh nhân dân, giấy phép lái xe, sổ hộ khẩu) với giá 6.000.000đ/ bộ. Đăng K đặt S1 làm 03 bộ giấy tờ giả nói trên với giá 3 - 4.000.000đ/ 1 bộ, bị cáo Đăng K hưởng lợi từ 2 - 3.000.000đ/ 1 bộ. Sau khi làm xong các giấy tờ giả thì Đăng K chuyển cho T bằng dịch vụ Grab (xe ôm công nghệ cao). T bàn và thống nhất với Lê Thành T1, Trương Chí H3 và Nguyễn Quang N2 sử dụng các giấy tờ giả đó đi thuê xe rồi bán lấy tiền. Thời điểm đó T cung cấp ảnh của Lê Thành T1, Trương Chí H3 và Nguyễn Quang N2 cho Đăng K để Đăng K làm giả các giấy tờ: Chứng minh nhân dân, giấy phép lái xe B2 và sổ hộ khẩu với các tên khác nhau, như: Lê Ngọc H4 (dán ảnh T1), Nguyễn Đình P2 (dán ảnh H), Quang Văn T (dán ảnh N). Sau đó, T đi cùng với Lê Thành T1 hoặc đi cùng Trương Chí H3 hoặc đi cùng Nguyễn Quang N2 sử dụng tên giả theo bộ giấy tờ giả để đi về huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng thuê xe ô tô tự lái rồi mang xe ô tô về Thành phố Hồ Chí Minh bán lấy tiền. Cụ thể:
Vụ thứ nhất: Xe ô tô Kia Sedona biển kiểm soát 49A-132.xx:
- Vào ngày 10/3/2020, sau khi nhận được bộ hồ sơ giả có dán ảnh của T1 với tên Lê Ngọc H4 do Đăng K chuyển đến, T cùng với Lê Thành T1, Trương Chí H3, Nguyễn Quang N2 sử dụng xe ô tô biển kiểm soát 60A-49095 (do T thuê của Lâm Thanh B1, HKTT: Ấp 2, xã S, huyện T, tỉnh Đ) đi lên tỉnh Lâm Đồng. Khi lên tới huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng, T liên hệ với người tên là Cu Ba Đ (hiện chưa xác định được T1 tin lai lịch) để hỏi một số điểm cho thuê xe ô tô ở thành phố Đà Lạt và huyện Đức Trọng. Cu Ba Đ cho T1 tin về một số chủ cho thuê xe tại thành phố Đà Lạt và huyện Đức Trọng cho T. Sau khi biết được một số điểm cho thuê xe và số điện thoại thì T giao cho T1 sử dụng sim rác để liên hệ đặt vấn đề thuê xe, đồng thời đưa bộ giấy tờ giả mang tên Lê Ngọc H4 (đều dán ảnh của T1) cho T1 đế T1 đi thuê xe.
Ngày 11/3/2020, T1 lấy tên giả Lê Ngọc H4 liên hệ với anh Phạm Minh D3, sinh năm 1985, HKTT: Số 42 Trần Phú, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng đặt vấn đề thuê xe ô tô tự lái. T1 đi lên thành phố Đà Lạt gặp anh D3 và thuê xe ô tô Sedona, màu trắng, biển kiểm soát 49A-132.xx với số tiền thuê 1.200.000đ/ngày, thời gian thuê 04 ngày. Anh D3 giao xe và các giấy tờ liên quan cho T1 và giữ lại sổ hộ khẩu mang tên Lê Ngọc H4. Thuê được xe của anh D3 thì T1 báo cho T và Nhân biết, rồi T1 cùng Nhân chạy xe ô tô của anh D3 về Thành phố Hồ Chí Minh, T và H về sau khi quay về Thành phố Hồ Chí Minh thì H không biết T1 đã lừa thuê xe của Anh D). Về đến Thành phố Hồ Chí Minh thì Nhận giao xe cho T và T1, T trả cho N 2.000.000đ tiền công chạy xe ô tô từ tỉnh Lâm Đồng về Thành phố Hồ Chí Minh. Đến ngày 15/3/2020, T1 giao xe Kia Sedona biển kiểm soát 49A-132.xx cho T để T liên hệ tìm người mua.
Để bán được xe, T liên hệ với Đăng K, Đăng K lấy tên giả là Trần Trung K đăng tin bán xe Sedona biển kiểm soát 49A-132.xx trên mạng xã hội với giá 250.000.000đ. Do đọc được T1 tin Đăng K đăng bán xe ô tô trên mạng nên Dương Chí H3 liên hệ với Đăng K để mua xe. H4 đồng ý mua xe ô tô trên với giá 250.000.000đ. Đăng K báo cho H4 biết xe Sedona biển kiểm soát 49A- 132.xx là xe không giấy tờ, nếu H4 đồng ý mua thì Đăng K sẽ cung cấp cho H4 một bộ giấy tờ xe “mẹ bồng con” cùng biển số khác để H4 lưu hành xe. Hiểu biết là không hợp pháp nhưng vẫn đồng ý mua với giá 250.000.000đ.
Để có giấy tờ phù hợp cho H4, Đăng K lên mạng tìm rồi thuê của anh Võ H2 T3, HKTT: Số 09 An Dương Vương, phường 10, quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh 01 xe ô tô Sedona, màu đỏ, biển kiểm soát 51H-125.xx cùng toàn bộ giấy tờ của xe này. Sau đó liên hệ với Bùi T1 S làm giả bộ giấy tờ xe 51H- 125.xx gồm: Giấy chứng nhận đăng kiểm, giấy biên nhận xe thế chấp ngân hàng và biển số giả. Sau đó Đăng K cùng với T giao, bán xe Kia Sedona biển kiểm soát 49A-32.xx cho H4. Khi giao dịch với H4 thì Đăng K và T đã giao cho H4 bộ giấy tờ xe Kia Sedona biển kiểm soát 51H-125.xx (thuê của anh T3) và đổi tem kiểm định và biển số của xe 49A-132.xx thành biển số 51H-125.xx. Đăng K nói H4 S1 lại xe ô tô đã mua của Đăng K thành màu đỏ cho phù hợp với giấy tờ xe 51H-125.xx, còn các giấy tờ và biển số giả mà S1 làm thì Đăng K đã giao và trả lại xe cho anh T3. Đăng K bán xe cho H4 với giá là 250.000.000đ, nhưng Đăng K chỉ đưa cho T 200.000.000đ, Đăng K hưởng số tiền 50.000.000đ. T lấy 100.000.000đ, T1 lấy 80.000.000đ, còn 20.000.000đ thì T và T1 thống nhất để T giữ và chi trả chi phí đi lại, ăn uống, làm giấy tờ giả.
Sau khi mua được xe ô tô Kia Sedona biển kiểm soát 49A-132.xx thì H4 dán decan từ màu trắng thành màu đỏ và thay biển kiểm soát 51H-125.xx cho giống với T1 tin trong giấy tờ xe. H4 sử dụng xe này làm phương tiện đi lại. Ngày 19/3/2020, khi H4 đang điều khiển xe đến huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu thì Cơ quan Công an tạm giữ xe..
Quá trình giải quyết vụ án, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại chủ sở hữu hợp pháp các xe ô tô: Kia Sedona biển kiểm soát 49A - 132.xx cho anh Phạm Minh D3 (cư trú: Số 42 Trần Phú, phường 4, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng).
Theo Bản kết luận định giá tài sản số 979/KL-HĐĐG ngày 04/5/2020 của Sở Tài chính tỉnh Lâm Đồng: Xe ô tô Kia Grand Sedona, 07 chỗ ngồi, tại thời điểm định giá còn 818.562.000đ.
Trong vụ này tài sản chiếm đoạt của Đào Mai T và Lê Thành T1 và Nguyễn Quang N2 là 818.562.000đ.
Nguyễn Hữu Đăng K và Dương Chí H3 có hành vi tiêu thụ tài sản phạm pháp có giá trị là 818.562.000đ.
Nguyễn Hữu Đăng K liên hệ với Bùi T1 S để làm giả giấy tờ gồm: Chứng minh nhân dân, giấy phép lái xe B2 và sổ hộ khẩu với các tên khác nhau, như: Lê Ngọc H4 (dán ảnh T1), Nguyễn Đình P2 (dán ảnh Hạnh), Quang Văn T (dán ảnh N), hưởng lợi 6.000.000đ/ bộ, tổng là 12.000.000đ; S1 được hưởng lợi 3.500.000đ/ 1 bộ.
Vụ thứ hai: Xe ô tô hiệu Kia Soluto biển kiểm soát 49A-293.xx:
Vào tối ngày 23/3/2020, T giao cho Trương Chí H3 một bộ hồ sơ giả (gồm: Giấy chứng minh nhân dân, giấy phép lái xe B2 giả, sổ hộ khẩu đều mang tên Nguyễn Đình P2 và đều được dán ảnh của Hạnh). T giao cho Nguyễn Quang N2 cũng một bộ hồ sơ giả mang tên Quang Văn T nhưng được dán ảnh của N (tương tự như bộ hồ sơ giao cho Hạnh). Sau đó Hạnh liên hệ với chị Nguyễn Thị Kiều M, trú tại: Xã Hiệp Thành, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng rồi thuê 01 xe ô tô hiệu Soluto biển kiểm soát 49-293.xx, thời gian thuê 04 ngày (đứng tên trong giấy tờ xe là Nguyễn Hồng Tâm, địa chỉ: 170 Phú Trung, xã Phú Hội, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng). Chị My giao các giấy tờ xe kèm theo cho Hạnh và giữ lại sổ hộ khẩu, chứng minh nhân dân giả (mang tên Nguyễn Đình P2). Hạnh điều khiển xe về Thành phố Hồ Chí Minh tiêu thụ. Ngày 24/3/2020, khi T, Hạnh đi cùng với Nhân và T1 đưa xe Kia Soluto, biển kiểm soát 49A- 293.xx đi đến Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh để bán cho người khác thì bị bắt giữ.
Quá trình giải quyết vụ án, Cơ quan CSĐT đã trả lại xe ô tô Kia Soluto, biển kiểm soát 49A-293xx cho anh Nguyễn Hồng T, địa chỉ: 170 Phú Trung, xã Phú Hội, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng.
Theo Bản kết luận định giá tài sản số 979/KL-HĐĐG ngày 04/5/2020 của Sở tài chính tỉnh Lâm Đồng: Xe ô tô Kia Soluto biển kiểm soát 49A-293.xx tại thời điểm định giá tháng 4/2020 còn 421.816.000đ.
Trong vụ này tài sản chiếm đoạt của Đào Mai T, Trương Chí H3 và là 421.816.000đ.
- Vụ thứ ba: Xe ô tô Kia Seratô biển kiểm soát 49A-203xx: là Nguyễn Quang N2 thuê của anh Trần Thanh L4 (trú tại: Thị trấn Liên Nghĩa, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng) 01 ô tô Kia Seratô biển kiểm soát 49A 203xx (đứng tên trong giấy tờ xe là Chềnh Mỹ Q và Lý A Sáp, ở số 118 Nguyễn Thái Học, thị trấn Liên Nghĩa, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng). Anh L giao các giấy tờ liên quan đến xe mà N2 thuê và giữ lại sổ hộ khẩu, chứng minh nhân dân giả (mang tên Quang Văn T). Sau khi thuê được xe thì N2 gọi lại cho T biết và N2 điều khiển xe về Thành phố Hồ Chí Minh.
Sau khi về Thành phố Hồ Chí Minh thì T liên hệ với Cu Ba Đ (nghi là Lê Đình S) để tìm người mua xe. T giao xe ôtô Kia Seratô biển số 49A 203xx cho T1 với Cu Ba Đ mang xe đi bán nhưng khi thử xe thì người thử xe (không rõ lai lịch) lấy xe đi luôn.
Theo Bản kết luận định giá tài sản số 1825/KL-HĐĐGTS ngày 06/8/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự tỉnh Lâm Đồng kết luận: Xe ô tô Kia Seratô biển kiểm soát 49A-203xx có giá trị 484.314.500đ.
Bị hại chủ xe Kia Seratô biển kiểm soát 49A-203xx là bà Chềnh Mỹ Q, ông Lý A Sặp, trú tại: Số 38 tổ 4, thị trấn Liên Nghĩa, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng) yêu các bị cáo phải bồi thường. Hiện các bị cáo chưa bồi thường.
Trong vụ này tài sản chiếm đoạt của Đào Mai T và Nguyễn Quang N2 và Lê Thành T1 là 484.314.500đ.
Đối với các giấy tờ do các bị cáo làm và sử dụng, tại bán kết luận giám định số 617/GĐ-PC09 ngày 27/3/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công tỉnh Lâm Đồng kết luận: Sổ hộ khẩu và giấy phép lái xe mà các bị cáo sử dụng để đi thuê xe đều là giả.
Ngoài các vật chứng đã thu giữ và xử lý như đã nêu trên, Cơ quan CSĐT còn thu giữ một số đồ vật và tiền của các bị cáo nộp để khắc phục hậu quả.
- Đối với chiếc xe ô tô LEXUS - RX350 màu trắng đã tạm giữ trong quá trình điều tra ban đầu, Cơ quan CSĐT - Công an tỉnh Lâm Đồng xét thấy xe này không liên quan đến vụ án nên Cơ quan CSĐT - Công an tỉnh Lâm Đồng tách riêng để tiếp tục xác minh, làm rõ.
- Đối với một số đồ vật khác thu trong quá trình khám xét nơi ở của Bùi T1 S, Cơ quan CSĐT - Công an tỉnh Lâm Đồng đã giám định, xét thấy không liên quan đến vụ án cho nên cơ quan CSĐT - Công an tỉnh Lâm Đồng tách riêng để tiếp tục điều tra xử lý.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 19/2022/HS-ST ngày 11 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng, đã quyết định:
Tuyên bố: Bị cáo Bùi T1 S phạm tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”;
Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 341; điểm c khoản 1 Điều 51; Điều 47; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Xử phạt bị cáo Bùi T1 S 06 (sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 27/3/2020.
Buộc bị cáo Bùi T1 S phải nộp số tiền thu lợi bất chính là 18.000.000đ để sung ngân sách nhà nước.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên phần về tội danh và hình phạt đối với các bị cáo: Bị cáo Đào Mai T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Làm giả, sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”; Bị cáo Lê Thành T1 phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Làm giả, sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”; Bị cáo Nguyễn Quang N2 phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Làm giả, sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”; Bị cáo Trương Chí H3 phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Làm giả, sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”; Bị cáo Lê Phan T1 H2 phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Làm giả, sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”; Bị cáo Nguyễn Hữu Đăng K phạm tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” và tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”; Bị cáo Dương Chí H3 phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”; Phần trách nhiệm dân sự; xử lý vật chứng; án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 22/8/2022, bị cáo Bùi T1 S kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, không đồng ý ngày bắt tạm giam, không đồng ý việc việc cấp sơ thẩm tịch thu sung ngân sách nhà nước các tài sản của bị cáo, bị cáo không thu lợi bất chính nên không phải nộp lại tiền.
Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm phát biểu: Bị cáo Bùi T1 S là người trực tiếp thực hiện hành vi làm giả, thu lợi bất chính và có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xử bị cáo Bùi T1 S 06 năm tù về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” và buộc bị cáo phải nộp lại tiền thu lợi bất chính theo quy định tại Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật. Đối với kháng cáo về ngày bị bắt tạm giam của bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không cung cấp được tài liệu, chứng cứ nào mới có giá trị chứng minh. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm.
Bị cáo trình bày tranh luận: Bị cáo cho rằng đại diện Viện kiểm sát đề nghị y án là quá nghiêm khắc đối với bị cáo. Vì mặc dù ban đầu khi bị bắt bị cáo có khai báo gian dối về nhân thân. Tuy nhiên các giai đoạn sau này bị cáo đã nhận ra và thành khần khai báo. Đồng phạm trong vụ án là Nguyễn Hữu Đăng K có vai trò như bị cáo nhưng bị xử với mức án 03 năm tù, vì thế không công bằng. Đối với ngày bị bắt tạm giam, tang vật của vụ án và số tiền thu lợi bất chính, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.
Lời nói sau cùng, bị cáo mong Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Đơn kháng cáo của bị cáo Bùi T1 S đúng về hình thức, nội dung và được nộp trong thời hạn luật định nên là kháng cáo hợp lệ.
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Bùi T1 S thừa nhận hành vi làm giả chứng minh nhân dân, giấy phép lái xe hạng B2 và sổ hộ khẩu theo yêu cầu của Nguyễn Hữu Đăng K. Cụ thể:
Trong vụ Đào Mai T và đồng phạm chiếm đoạt xe ô tô Mazda3 biển kiểm soát 60A-348xx vào tháng 2/2020, Bùi T1 S làm giả chứng minh nhân dân, giấy phép lái xe hạng B2 mang hình của Lê Thành T1 nhưng với tên giả là Huỳnh Đức T2 với giá 3.000.000 đồng.
Trong vụ Đào Mai T chiếm đoạt xe ô tô hiệu Kia Rondo biển kiểm soát 51F-991.xx (biển kiểm soát 51G-862xx) và tháng 3/2020, Bùi T1 S làm giả 01 chứng minh nhân dân, 01 giấy phép lái xe B2 mang tên Nguyễn Duy N1, sinh năm 1993, HKTT: Tổ 2A1, khu phố 2, thị trấn Trảng Bom, huyện T, tỉnh Đ nhưng dán hình của Phan T1 H2 với giá 5.000.000-6.000.000 đồng.
Ngoài ra cũng trong tháng 3/2020 theo yêu cầu của Nguyễn Hữu Đăng K, Bùi T1 S làm giả 03 bộ hồ sơ gồm: Chứng minh nhân dân, giấy phép lái xe B2 và sổ hộ khẩu với các tên khác nhau, như: Lê Ngọc H4 (dán ảnh T1), Nguyễn Đình P2 (dán ảnh Hạnh), Quang Văn T (dán ảnh N) với giá 3.000.000 - 4.000.000 đồng/ bộ.
Lời khai của bị cáo Bùi T1 S phù hợp với lời khai của Nguyễn Hữu Đăng K và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ căn cứ kết luận, bị cáo Bùi T1 S là người không có thẩm quyền, tuy nhiên bằng kỹ thuật đã tạo ra 13 tài liệu giả của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc cấp chứng minh nhân dân, giấy phép lái xe và sổ hộ khẩu. Do đó Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử bị cáo Bùi T1 S về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 341 Bộ luật hình sự là có căn cứ.
[2] Xét kháng cáo của bị cáo Bùi T1 S, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[2.1] Đối với hình phạt tù: Mặc dù hậu quả do hành vi của bị cáo gây ra đã tạo điều kiện cho các bị cáo khác trong vụ án chiếm đoạt tài sản, không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, hành vi của bị cáo không những xâm phạm đến hoạt động đúng đắn, bình thường của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong hoạt động quản lý hành chính của nhà nước mà còn tạo điều kiện cho tội phạm khác xâm phạm tài sản của công dân. Bị cáo là người có nhân thân xấu, đồng thời năm 2019 còn bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương truy tố cũng về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”, sau đó bỏ trốn và có lệnh truy nã. Do đó Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xử phạt bị cáo hình phạt tù có thời hạn là có căn cứ. Tuy nhiên xét thấy mức án 06 năm tù là có phần nghiêm khắc, nên kháng cáo của bị cáo về hình phạt được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[2.2] Đối với ngày bị bắt tạm giam: Bị cáo cho rằng bị bắt vào ngày 21/3/2020, tuy nhiên Cơ quan Cảnh sát điều tra ép ký vào biên bản bắt bị can để tạm giam ngày 27/3/2020. Hội đồng xét xử nhận thấy:
Căn cứ vào Lệnh bắt bị can để tạm giam số 10/CSHS ngày 27/3/2020 có chữ ký của bị cáo tại bút lục số 44 và Công văn số 1280/CSHS ngày 07/7/2022 (bút lục 16534) của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Lâm Đồng có nội dung “Vào ngày 21/03/2020, Cơ quan CSĐT - CA tỉnh Lâm Đồng phối hợp với CATP Hồ Chí Minh triệu tập, làm việc với Nguyễn Hữu Đăng K, Dương Chi H4 và Huỳnh Bá S (tức Huỳnh Bá S1)... Để đảm bảo cho hoạt động xác minh, làm rõ, Cơ quan CSĐT - CA tỉnh Lâm Đồng đã yêu cầu và mời các đối tượng trên về trụ sở (là phòng CSHS-CA tỉnh Lâm Đồng) để phối hợp làm việc. Trong thời gian làm việc tại trụ sở cơ quan công an, Cơ quan CSĐT-CA tỉnh Lâm Đồng không áp dụng biện pháp ngăn chặn nào đối với Huỳnh Bá S (tức Huỳnh Bá S1), Nguyễn Hữu Đăng K và Dương Chí H3 vì chưa đủ căn cứ.
Trên cơ sở tài liệu, chứng cứ đã thu thập được, ngày 27/03/2020 Cơ quan CSĐT-CA tỉnh Lâm Đồng đã ra Quyết định khởi tố bị can và ra lệnh bắt bị can để tạm giam đối với Huỳnh Bá S về tội “ Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”. Sau khi VKSND tỉnh Lâm đồng ra Quyết định phê chuẩn Quyết định khởi tố bị can và ra Quyết định phê chuẩn Lệnh bắt bị can để tạm giam đối với Huỳnh Bá S, Cơ quan CSĐT-CA tỉnh Lâm Đồng đã tiến hành bắt và đưa bị can Sanh đến trại tạm giam CA tỉnh Lâm Đồng để giam giữ vào ngày 27/03/2020”. Huỳnh Bá S (Huỳnh Bá S1) là tên giả, sau đó được xác định chính là Bùi T1 S.
Tại phiên tòa phúc thẩm, không có tài liệu, chứng cứ nào mới. Do đó không có căn cứ để chấp nhận thời hạn tù của bị cáo được tính từ ngày 21/3/2020.
[2.3] Đối với các tài sản bị tịch thu sung quỹ nhà nước thu giữ của Bùi T1 S gồm:
- 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO - F9 màu xanh đen, kèm một sim Viettel và một sim Mobiphone số 0937765xxx;
- 01 (một) điện thoại Samsung màu vàng, có số IMEI 352008/09/86044916, IMEI 352009/09/860449/4;
- 01 (một) máy tính xách tay màu đen xám nhãn hiệu Dell, kèm 01 dây sạc;
- 01 (một) máy in phun màu, màu đen (đựng trong thùng các tong có đóng dấu tròn đỏ của Phòng cảnh sát hình sự - Công an tỉnh Lâm Đồng);
- 01 (một) máy ép plactic, màu trắng (đựng trong thùng các tong có đóng dấu tròn đỏ của Phòng cảnh sát hình sự - Công an tỉnh Lâm Đồng);
Theo Biên bản khám xét chỗ ở của bị cáo Bùi T1 S vào ngày 22/3/2020 (bút lục 37) được xác định là các tài sản có liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo. Do đó cấp sơ thẩm tuyên bố tịch thu sung quỹ nhà nước là có căn cứ.
[2.4] Đối với số tiền thu lợi bất chính, Hội đồng xét xử nhận thấy:
Tòa sơ thẩm tuyên buộc bị cáo nộp số tiền thu lợi bất chính 18.000.000 đồng là chưa chính xác. Bởi vì căn cứ vào lời khai của bị cáo và lời khai của Nguyễn Hữu Đăng K tại cơ quan điều tra thì số tiền mà bị cáo Bùi T1 S nhận làm các loại giấy tờ tùy thân với số tiền được nhớ một cách ước lượng, như trong vụ Đào Mai T chiếm đoạt Xe ô tô hiệu Kia Rondo biển kiểm soát 51F- 991.xx, bị cáo nhận làm với số tiền khoảng 5.000.000-6.000.000 đồng; và trong hành vi làm giả 03 bộ hồ sơ gồm: Chứng minh nhân dân, giấy phép lái xe B2 và sổ hộ khẩu với các tên khác nhau, như: Lê Ngọc H4 (dán ảnh T1), Nguyễn Đình P2 (dán ảnh H), Quang Văn T (dán ảnh N) với giá 3.000.000 - 4.000.000 đồng/ bộ. Do đó, cấp sơ thẩm tính toán số tiền thu lợi bất chính 18.000.000 đồng là không có lợi cho bị cáo vì không có tài liệu nào thể hiện số tiền chính xác, mà cần lấy số tiền thấp nhất theo lời khai của bị cáo để xác định. Vì thế, số tiền sẽ được tính là 3.000.000 đồng trong hành vi làm giả chứng minh nhân dân và giấy phép lái xe mà Đào Mai T chiếm đoạt xe Mazda 60A-348.88; trong vụ Đào Mai T chiếm đoạt xe ô tô hiệu Kia Rondo biển kiểm soát 51F-991.xx, bị cáo nhận làm với số tiền khoảng 5.000.000 đồng; và trong hành vi làm giả 03 bộ hồ sơ gồm Chứng minh nhân dân, giấy phép lái xe B2 và sổ hộ khẩu với các tên khác nhau, như: Lê Ngọc H4 (dán ảnh T1), Nguyễn Đình P2 (dán ảnh Hạnh), Quang Văn T (dán ảnh N) với giá 3.000.000/bộ. Tổng cộng bị cáo Bùi T1 S nhận từ Nguyễn Hữu Đăng K được xác định là 17.000.000 đồng. Do hành vi của bị cáo là trái pháp luật, nên đây là số tiền thu lợi bất chính.
Như vậy, Hội đồng xét xử chỉ có căn cứ chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bị cáo về biện pháp tư pháp là buộc bị cáo nộp số tiền thu lợi bất chính, thấp hơn số tiền cấp sơ thẩm quy buộc.
[3] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại phiên tòa được Hội đồng xét xử chấp nhận một phần.
[4] Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[5] Án phí hình sự phúc thẩm: Do đơn kháng cáo được chấp nhận một phần nên bị cáo không phải chịu.
Vì các lẽ nêu trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
[1] Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Bùi T1 S. Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 19/2022/HS-ST ngày 11 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng.
Tuyên bố: Bị cáo Bùi T1 S phạm tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”;
Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 341; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 47; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
[1.1] Xử phạt bị cáo Bùi T1 S 05 (năm) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 27/3/2020. Tiếp tục tạm giam bị cáo để bảo đảm thi hành án.
[1.2] Buộc bị cáo Bùi T1 S phải nộp số tiền thu lợi bất chính là 17.000.000 đồng (mười bảy triệu đồng) để sung ngân sách nhà nước.
[1.3] Tịch thu sung quỹ nhà nước các tài sản thu giữ của Bùi T1 S gồm:
- 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO - F9 màu xanh đen, kèm một sim Viettel và một sim Mobiphone số 0937765xxx;
- 01 (một) điện thoại Samsung màu vàng, có số IMEI 352008/09/86044916, IMEI 352009/09/860449/4;
- 01 (một) máy tính xách tay màu đen xám nhãn hiệu Dell, kèm 01 dây sạc;
- 01 (một) máy in phun màu, màu đen (đựng trong thùng các tong có đóng dấu tròn đỏ của Phòng cảnh sát hình sự - Công an tỉnh Lâm Đồng);
- 01 (một) máy ép plactic, màu trắng (đựng trong thùng các tong có đóng dấu tròn đỏ của Phòng cảnh sát hình sự - Công an tỉnh Lâm Đồng);
[2] Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[3] Án phí hình sự phúc thẩm:
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Bị cáo Bùi T1 S không phải chịu.
[4] Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức số 44/2023/HS-PT
Số hiệu: | 44/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/01/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về