Bản án về tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức số 305/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 305/2022/HS-PT NGÀY 26/07/2022 VỀ TỘI LÀM GIẢ TÀI LIỆU CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC

Ngày 26 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 218/2022/HSPT ngày 27/5/2022 đối với bị cáo Bùi Mạnh D do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 35/2022/HS-ST ngày 13/4/2022 của Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo có kháng cáo:

Bùi Mạnh D, sinh năm 1985 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi thường trú: 111 Đường T, phường T1, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Xuân C và bà Trịnh Thị V; có vợ đã ly hôn và 03 con, lớn nhất sinh năm 2015, nhỏ nhất sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: không. Bị bắt, tạm giam từ ngày 01/02/2021. (có mặt).

Người bào chữa: Luật sư Nguyễn Tấn T thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo Bùi Mạnh D. (có mặt) Bị hại: Bà Trương Thị Việt H, sinh năm 1972; trú tại: Số 12 L, Phường A, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Lưu Xuân D1, sinh năm 1971; trú tại: 4.7 Lô B, Khu phố 1 đường LĐG, Chung cư A, phường A1, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt).

2. Ông Đỗ Đình C1, sinh năm 1985; trú tại: 116 ĐBP, phường Đ, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh. (có mặt).

3. Ông Cheng Kim M, sinh năm 1952; trú tại: Số 12 L, Phường A, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt).

4. Công ty TNHH Dịch vụ và Thương mại TLPA; địa chỉ: 490/66 LTT, Phường A, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh. Người đại diện hợp pháp: Ông Trịnh Lê Duy A, sinh năm 1979. (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bà Trương Thị Việt H là người đứng tên thửa đất số 405, tờ bản đồ số 18, địa chỉ số 235- 239 Phan Đình Phùng, Phường 15, quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh. Tháng 7/2019, qua quen biết, bà Hà nhờ ông Lưu Xuân D1 xin giấy phép xây dựng căn nhà trên theo giấy phép xây dựng cũ đã cấp trước đây. Xuân D1 và bà H thỏa thuận chi phí là 700.000.000 đồng, khi nào Xuân D1 giao giấy phép xây dựng thì bà H mới đưa tiền. Sau đó, ông Lưu Xuân D1 đã nhờ ông Đỗ Đình C1 giới thiệu người xin giấy phép xây dựng nhà cho bà H và đưa giấy phép xây dựng và bản vẽ cũ cho ông C1. Sau khi nhận được giấy phép cũ, ông C1 đưa cho Bùi Mạnh D để nhờ Mạnh D đi xin giấy phép xây dựng như giấy phép xây dựng cũ, Mạnh D thỏa thuận chi phí với ông Lưu Xuân D1 là 250.000.000 đồng.

Tháng 8/2019, Bùi Mạnh D yêu cầu ứng trước 150.000.000 đồng và hẹn gặp ông Lưu Xuân D1 tại Uỷ ban nhân dân Quận 1 để giao nhận tiền, có sự chứng kiến của ông C1. Sau khi nhận tiền, biết mình không xin được giấy phép xây dựng nhà số 235 - 239 Phan Đình Phùng, Phường 15, quận Phú Nhuận nên cuối tháng 8/2019, Bùi Mạnh D thuê ông Trịnh Lê Duy A - Giám đốc Công ty TNHH Dịch vụ thương mại TLPA vẽ một bản vẽ xây dựng giống bản vẽ cũ với giá 6.000.000 đồng, đồng thời lên mạng xã hội Facebook tìm tài khoản có tên “Làm giấy tờ giả” thuê làm giấy phép giả với giá 8.000.000 đồng. Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 07/9/2019, Mạnh D hẹn một đối tượng (không rõ lai lịch) giao các giấy tờ giả tại trước cổng Bệnh viện đại học Y Dược, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh. Sau khi nhận được giấy phép xây dựng giả, Bùi Mạnh D đưa giấy phép xây dựng số 364/GPXD ngày 17/9/2019 giả và bản vẽ giả có dấu của Uỷ ban nhân dân quận Phú Nhuận và dấu Công ty TNHH Dịch vụ Thương mại TLPA giả cho ông C1, ông C1 đưa lại cho ông Lưu Xuân D1, ông Dũng đưa cho Bùi Mạnh D 100.000.000 đồng còn lại.

Ngày 15/9/2019, ông Lưu Xuân D1 đến địa chỉ 12A Lê Ngô Cát, Phường 7, Quận 3 gặp ông Cheng Kim M (là chồng bà H) đưa giấy phép xây dựng, bản vẽ và nhận số tiền 700.000.000 đồng.

Ngày 30/10/2019, bà H tiến hành thi công xây dựng căn nhà trên thì nhận được quyết định xử phạt vi phạm hành chính của Uỷ ban nhân dân quận Phú Nhuận. Lý do xây dựng nhà không phép, qua tìm hiểu bà H biết được giấy phép xây dựng, bản vẽ đo đạc cùng các giấy tờ liên quan mà ông Lưu Xuân D1 đưa cho mình là giả nên bà H làm đơn tố giác ông Lưu Xuân D1 đến Công an Quận 1.

Quá trình điều tra, bà Trương Thị Việt H khai: Do có nhu cầu xây dựng căn nhà nhà số 235-239 đường Phan Đình Phùng, phường 15, quận Phú Nhuận, bà H đã gặp ông Lưu Xuân D1 nhờ ông Dũng làm giấy tờ xin phép xây dựng, cả hai cùng thỏa thuận chi phí xin cấp phép với giá 700 triệu đồng. Đến ngày 15/9/2019, ông Dũng đem 02 giấy tờ trên giao cho ông Cheng Kim M (chồng bà H) và nhận số tiền 700.000.000 đồng tại nhà bà H. Sau khi nhận được giấy tờ bà H tiến hành cho thi công xây dựng nhà thì bị Ủy Ban nhân dân quận Phú Nhuận ra Quyết định xử phạt hành chính vì xây dựng không có giấy phép. Toàn bộ giấy tờ xin cấp giấy phép thi công là giả, bà H hoàn toàn không biết, lời khai của bà H phù hợp với tài liệu có trong hồ sơ.

Ông Đỗ Đình C1 và ông Lưu Xuân D1 khai: Vào khoảng tháng 8/2019, ông Lưu Xuân D1 có liên lạc và nhờ tìm người xin dùm giấy phép xây dựng căn nhà số 235-239 Phan Đình Phùng, Phường 15, quận Phú Nhuận nên ông C1 giới thiệu Bùi Mạnh D cho ông Xuân D1 biết. Khoảng 02 ngày sau, Bùi Mạnh D báo cho ông C1 và Xuân D1 là xin được giấy cấp phép xây dựng, cả hai thỏa thuận với giá 250.000.000 đồng, đồng thời yêu cầu bà H phải làm giấy ủy quyền cho Mạnh D để đi làm thủ tục. Quá trình giao dịch đưa tiền có ông C1 chứng kiến. Việc Bùi Mạnh D giao giấy tờ xin cấp phép thi công số 364/GPXD ngày 17/09/2019 của Uỷ ban nhân dân quận Phú Nhuận và bản vẽ xin phép xây dựng có đóng dấu của công ty TNHH giả, ông C1 và ông Xuân D1 không biết, ông C1 không được hưởng lợi gì, ông Lưu Xuân D1 hưởng lợi 450.000.000 đồng. Lời khai của ông C1, ông Xuân D1 phù hợp nhau, phù hợp với lời khai của Mạnh D.

Ông Trịnh Lê Duy A khai nhận: Tháng 8/2019, Bùi Mạnh D đến Công ty TNHH Dịch vụ Thương Mại TLPA và đưa cho A 01 bản vẽ xây dựng cũ của căn nhà số 235-239 Phan Đình Phùng, Phường 15, quận Phú Nhuận nhờ vẽ theo bản vẽ xây dựng cũ với giá 6.000.000 đồng mục đích để tham khảo. Việc Bùi Mạnh D sử dụng bản vẽ xây dựng để đi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, A không biết. Lời khai của A phù hợp với lời khai của Mạnh D và chữ ký trên bản vẽ xin phép xây dựng không phải do cùng một người ký ra.

Xác minh tại Uỷ ban nhân dân quận Phú Nhuận: từ tháng 8/2019 đến tháng 10/2019 không có nhận bất kỳ hồ sơ đề nghị cấp giấy phép xây dựng thuộc quyền sở hữu đất và quyền sở hữu nhà gắn liền đất ở số CHO1197 ngày 06/9/2018. Ngày 07/12/2019, Uỷ ban nhân dân quận Phú Nhuận đã cấp phép xây dựng số 687/GPXD cho bà Trương Thị Việt H.

Tại Bản Kết luận giám định số 760/KLGD ngày 28/4/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận:

“Chữ ký đứng tên Nguyễn Thành Phương trên Giấy phép xây dựng số 364/GPXD ngày 17/9/2019 được làm giả bằng phương pháp in phun màu;

- Chữ ký đứng tên Nguyễn Thành Phương trên Bản vẽ xin phép xây dựng, duyệt đính theo Giấy phép xây dựng số 364/GPXD ngày 17/9/2019 so với chữ ký trên mẫu so sánh không phải do cùng một người ký ra;

- Dấu họ tên Nguyễn Thành Phương trên Giấy phép xây dựng số 364/GPXD ngày 17/9/2019, Bản vẽ xin phép xây dựng, duyệt đỉnh theo Giấy phép xây dựng số 364/GPXD ngày 17/9/2019 được làm giả bằng phương pháp in phun màu;

- Hình dấu tròn có nội dung “ỦY BAN NHÂN DÂN QUẬN PHÚ NHUẬN TP HỒ CHÍ MINH” trên Giấy phép xây dựng số 364/GPXD ngày 17/9/2019, Bản vẽ xin phép xây dựng, duyệt đỉnh theo Giấy phép xây dựng số 364/GPXD ngày 17/9/2019 được làm giả bằng phương pháp in phun màu”.

Tại Bản Kết luận giám định số 2048/KLGD ngày 20/10/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: “Hình dấu tròn Công ty TNHH Dịch vụ Thương mại TLPA trên Bản vẽ xin phép xây dựng, duyệt đỉnh theo Giấy phép xây dựng số 364/GPXD ngày 17/9/2019 được thực hiện bằng phương pháp in phun màu; chữ ký mang tên Trịnh Lê Duy A trên Bản vẽ xin phép xây dựng, duyệt đính theo Giấy phép xây dựng số 364/GPXD ngày 17/9/2019 so với chữ ký của Trịnh Lê Duy A trên mẫu so sánh không phải do cùng một người ký ra”.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 1, Bùi Mạnh D chỉ thừa nhận hành vi làm giả con dấu tài liệu của cơ quan tổ chức, không thừa nhận hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Vật chứng vụ án: Thu giữ 01 Giấy phép xây dựng số 364/GPXD ngày 17/9/2019; 01 bản vẽ xin phép xây dựng, lưu theo hồ sơ vụ án.

Về trách nhiệm dân sự: số tiền 700.000.000 đồng, ông Lưu Xuân D1 đã trả lại cho bà H số tiền 450.000.000 đồng, Bùi Mạnh D đã trả lại cho bà H 250.000.000 đồng, bà H làm đơn cam kết không thắc mắc khiếu nại gì về sau.

Tại bản cáo trạng số 136/CT-VKSQ1 ngày 13/9/2021, Viện kiểm sát nhân dân Quận 1 đã truy tố bị cáo Bùi Mạnh D về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 3 Điều 174 và “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức” theo điểm b khoản 3 Điều 341 của Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 35/2022/HS-ST ngày 13/4/2022 của Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Bùi Mạnh D phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Làm giả tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.

Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 174; điểm b khoản 3 Điều 341; điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 55 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt Bùi Mạnh D 07 (bảy) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và 03 (ba) năm tù về tội “Làm giả tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”. Tổng hợp hình phạt chung cho hai tội là 10 (mười) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 01/02/2021.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 15/4/2022, bị cáo Bùi Mạnh D có đơn kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân Quận 1 đề nghị xét xử lại vụ án, mức án 10 năm tù đã tuyên là quá nặng.

Tại phiên tòa phúc thẩm ngày hôm nay, bị cáo Bùi Mạnh D đã thừa nhận những hành vi phạm tội do bị cáo gây ra như nội dung bản án sơ thẩm đã nêu, bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt với lý do: đã nhận thức được việc làm của mình là sai trái; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu, nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xác định: Về tội danh cấp sơ thẩm chưa xem xét hành vi sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức và hành vi của bị cáo có dấu hiệu của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, do không làm xấu đi tình trạng của bị cáo nên Viện kiểm sát chỉ xem xét trong phạm vi mà bị cáo bị truy tố, xét xử theo bản án sơ thẩm. Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình, căn cứ vào lời khai của bị cáo và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nhận thấy bản án sơ thẩm đã áp dụng đúng các căn cứ pháp luật để xử phạt bị cáo Bùi Mạnh D về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” theo điểm b khoản 3 Điều 341 và “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 3 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo Bùi Mạnh D có đơn kháng cáo trong thời hạn luật định nên hợp lệ. Xét mức án 03 năm tù về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” và 07 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; tổng hợp hình phạt chung của cả hai tội là 10 năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên với bị cáo là phù hợp, nằm ở đầu khung hình phạt của mỗi tội. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Đối với các tình tiết mới như: tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình và gia đình bị cáo có nộp thêm các tài liệu thể hiện gia đình bị cáo có công với cách mạng như: ông Bùi Văn Viên là ông nội của bị cáo được tặng huân, huy chương, bằng Tổ quốc ghi công, cha mẹ của bị cáo được tặng thưởng kỷ niệm chương, huy hiệu 30 -40 năm tuổi Đảng thì đề nghị Hội đồng xét xử xem xét thêm cho bị cáo theo quy định của pháp luật.

Luật sư Nguyễn Tấn T trình bày bài bào chữa cho bị cáo Bùi Mạnh D cho rằng: về tội danh làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức, bị cáo chỉ thuê người trên mạng làm giả giấy phép chứ không phải làm giả con dấu đóng lên giấy phép, do đó bị cáo không có hành vi làm giả con dấu. Về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thì không rõ Viện kiểm sát nêu là ở hành vi nào. Trong bản án sơ thẩm và giai đoạn điều tra, bị cáo Dũng luôn thành khẩn khai báo, khai đúng, nhận đủ các diễn biến, hành vi đã thực hiện, nhưng điều đó không có căn cứ để xác định rằng bị cáo có tội hay không có tội bởi trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan tố tụng. Cấp sơ thẩm cho rằng bị cáo quanh co chối tội, không thành khẩn, không ăn năn hối cải là không chính xác, bản thân bị cáo được quyền không thừa nhận mình có tội. Về tình tiết bị hại có đơn xin miễn trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, cấp sơ thẩm có ghi nhận nhưng không xét, bà H đã xác định bị cáo không phải là người gây thiệt hại cho bà, bà H tố cáo ông Lưu Xuân D1 chứ không phải Bùi Mạnh D, bà H đã nhận lại toàn bộ số tiền 250.000.000 đồng trước khi tố cáo và khởi tố vụ án. Khi nhận lại được tiền đầy đủ của bị cáo và Xuân Dũng thì bà Hà đã có đơn đề nghị miễn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Lưu Xuân D1, Bùi Mạnh D nhưng chỉ Lưu Xuân D1 được xem xét không khởi tố còn bị cáo lại bị khởi tố và xử lý hình sự. Cấp sơ thẩm chưa làm rõ cấu thành tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở các tình tiết: ai là bị hại, thời điểm cấu thành tội phạm là thời điểm nào. Diễn biến vụ án cho thấy, khi thực hiện làm dịch vụ xin giấy phép xây dựng theo giấy phép cũ, bị cáo nghĩ rằng có thể xin lại được giấy phép mới theo như giấy cũ và đã liên hệ với bà H để làm thủ tục ủy quyền, đã liên hệ đo đạc hiện trạng, đã cầm hồ sơ liên hệ nộp và được biết có sự thay đổi về quy hoạch. Đây là giao dịch dân sự nên không đủ yếu tố cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hay lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Số tiền bị cáo nhận từ ông Xuân D1 chỉ là tiền thực hiện dịch vụ. Do thời gian hứa nhận làm xong dịch vụ quá thời hạn, bị ông Xuân D1 thúc ép nên bị cáo mới làm giấy giả để đưa cho ông Xuân D1, bị cáo không có ý thức chiếm đoạt tài sản. Việc nhận tiền từ ông Xuân D1 chỉ là tiền tạm ứng chi phí, không có tài liệu nào chứng minh là bị cáo có ý thức chiếm đoạt số tiền này, khi đưa giấy giả cho ông C1 thì bị cáo có dặn đây là bản lưu nên không được đưa cho bà H nhưng ông Xuân D1 lại tự ý đưa cho bà H và nhận số tiền 700 triệu đồng. Khi bà H tổ chức thi công công trình bị xử phạt hành chính, bị cáo cũng đã chủ động gặp bà H để nộp tiền phạt và xin hứa tiếp tục xin giấy phép xây dựng nhưng bà H không đồng ý. Vì vậy, bị cáo đã trả lại số tiền 250 triệu đồng cho bà H. Còn ông Lưu Xuân D1 không trả số tiền 450 triệu đồng cho bà H nên mới bị tố cáo. Bị cáo có nhận tiền của ông Xuân D1, nhưng không phải nhận để chiếm đoạt, tiêu xài mà để thực hiện công việc xin giấy phép, cấp sơ thẩm suy đoán rằng việc bị cáo nhận số tiền 150 triệu đồng trước đó cũng là lừa đảo là không phù hợp, bởi bị cáo thực hiện dịch vụ bằng các công việc cụ thể chứ không phải không làm gì và chiếm đoạt số tiền đó. Do đó, bị cáo nếu bị xử lý hình sự về hành vi lừa đảo thì chỉ có căn cứ xác định bị cáo ở số tiền 100 triệu đồng mà thôi. Tại phiên tòa, dù bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội, nhưng luật sư thấy rằng bị cáo không phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Riêng tội danh làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức thì luật sư không tranh luận về tội danh, chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét bị hại đã có đơn xin miễn trách nhiệm hình sự với bị cáo, bị cáo phạm tội vì bị đe dọa theo điểm k khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự vì ông Lưu Xuân D1 có hù dọa thuê xã hội đen và gây áp lực cho bị cáo. Bị cáo đã thành khẩn khai báo, khai báo rõ ràng, hợp tác với cơ quan điều tra giải quyết xong vụ án, cấp sơ thẩm không xem xét cho bị cáo là có thiếu sót. Hoàn cảnh gia đình bị cáo Dũng có 03 con nhỏ, cha mẹ bị cáo, ông bà nội có công với cách mạng, có đóng góp cho Đảng và nhà nước; bị hại không còn bị thiệt hại. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét khoan hồng, miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo Bùi Mạnh D đồng ý với bài bào chữa của luật sư, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét khoan hồng, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về gia đình, chăm sóc cha mẹ. Tại thời điểm bị cáo nhận số tiền 150 triệu đồng của ông Xuân D1, bị cáo không có ý định chiếm đoạt số tiền này, thời điểm sau khi bị cáo đưa giấy tờ giả, ông Xuân D1 đưa cho bị cáo số tiền 100 triệu đồng, bị cáo cũng nghĩ là bình thường mà không nghĩ rằng mình chiếm đoạt số tiền đó. Bị cáo thấy rằng bị cáo chỉ lừa đảo của ông Dũng số tiền 100 triệu đồng.

Tranh luận lại quan điểm của luật sư, bị cáo, đại diện Viện kiểm sát cho rằng: bị cáo nhận số tiền 150 triệu đồng của ông Lưu Xuân D1, sau khi bị cáo biết mình không xin được giấy phép xây dựng, bị cáo không trả lại cho ông Xuân D1 mà lại thực hiện hành vi lập bản vẽ, làm giả giấy phép, sau đó đưa giấy phép giả và bản vẽ giả cho ông C1 để đưa cho ông Xuân D1 và nhận thêm số tiền 100 triệu đồng nên đã phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tổng số tiền là 250 triệu đồng. Về tình tiết thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và gia đình bị cáo có công cách mạng thì Viện kiểm sát thống nhất, không tranh luận. Luật sư nêu quan điểm cho rằng bị cáo không phạm tội nhưng lại đề nghị miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là mâu thuẫn. Trong suốt quá tình bị cáo làm giả giấy phép, bản vẽ, bị cáo tự làm mà không cho ông Xuân D1 hay ông C1 biết nên không có căn cứ xử lý hình sự đối với ông Xuân D1. Đại diện Viện kiểm sát bảo lưu quan điểm.

Luật sư Nguyễn Tấn T tranh luận: cho đến thời điểm làm giấy giả thì bị cáo Mạnh D chưa chấm dứt công việc thực hiện xin giấy phép, thậm chí sau khi đưa giấy giả thì bị cáo vẫn tiếp tục liên hệ với bà H, liên hệ cơ quan chức năng để làm giấy phép xây dựng. Phía ông Xuân D1 cũng không yêu cầu bị cáo phải trả tiền mà chỉ thúc ép bị cáo phải làm xong giấy phép xây dựng để lấy tiền của bà H. Sau khi phát hiện giấy giả, bị cáo vẫn tiếp tục liên hệ để xin giấy phép mà bà H không đồng ý và đòi lại tiền. Luật sư bảo lưu quan điểm rằng bị cáo không phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Các bên còn đưa ra một số quan điểm đối đáp, tranh luận nhưng cuối cùng đều bảo lưu quan điểm như đã trình bày.

Trong phần nói lời sau cùng, bị cáo Bùi Mạnh Dũng mong Hội đồng xét xử xem xét vụ án một cách khách quan, toàn diện và cho bị cáo được giảm nhẹ hình phạt để có điều kiện trở về gia đình, hòa nhập xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 1, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân Quận 1, Kiểm sát viên, Tòa án nhân dân Quận 1, Thẩm phán trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại các bản tự khai, biên bản ghi lời khai, bị cáo đều trình bày lời khai hoàn toàn tự nguyện, không bị ép cung, nhục hình. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm ngày hôm nay, mặc dù không thừa nhận đã phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tình tiết định khung hình phạt theo khoản 3 Điều 341 Bộ luật hình sự về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” như cấp sơ thẩm đã truy tố, xét xử nhưng bị cáo Bùi Mạnh D đã thừa nhận các diễn biến, hành vi bị cáo thực hiện như nội dung bản án sơ thẩm đã nêu. Cụ thể: Tháng 8/2019, sau khi được Đỗ Đình C1 giới thiệu, bị cáo đã gặp Lưu Xuân D1 và đồng ý sẽ làm thủ tục xin Giấy phép xây dựng căn nhà số 235-239 Phan Đình Phùng, Phường 15, quận Phú Nhuận cho bà Trương Thị Việt H theo Giấy phép xây dựng cũ với chi phí là 250.000.000 đồng, bị cáo đã nhận tạm ứng trước của Lưu Xuân D1 số tiền 150.000.000, khi bị cáo giao bản chính Giấy phép xây dựng thì sẽ nhận số tiền còn lại.

Sau khi nhận tiền, ngày 23/8/2019, bị cáo yêu cầu chủ nhà là bà Trương Thị Việt H lập văn bản ủy quyền để bị cáo nộp thủ tục xin phép xây dựng nhưng thực tế bị cáo chưa thực hiện việc nộp hồ sơ xin giấy phép như thỏa thuận. Cuối tháng 8/2019, bị cáo đã thuê ông Trịnh Lê Duy A - Giám đốc Công ty TNHH Dịch vụ thương mại TLPA vẽ một bản vẽ xây dựng giống bản vẽ cũ của căn nhà số 235-239 Phan Đình Phùng, Phường 15, quận Phú Nhuận với giá 6.000.000 đồng. Đồng thời, lên mạng xã hội Facebook tìm tài khoản có tên “Làm giấy tờ giả” thuê người làm giả giấy phép xây dựng với giá 8.000.000 đồng. Sau khi nhận được giấy phép xây dựng giả số 364/GPXD ngày 17/9/2019, bị cáo đã đưa giấy phép xây dựng và bản vẽ giả có dấu của Uỷ ban nhân dân quận Phú Nhuận và dấu Công ty TNHH Dịch vụ Thương mại TLPA cho ông C1 để ông C1 đưa lại cho Lưu Xuân D1 và được Xuân D1 trả số tiền 100.000.000 đồng còn lại.

Căn cứ vào lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại giai đoạn điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với lời khai của bị hại, vật chứng thu giữ, bản kết luận giám định và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Có căn cứ xác định: ban đầu giữa bị cáo Bùi Mạnh D và bà Trương Thị Việt H, ông Lưu Xuân D1 có thỏa thuận một giao dịch để thực hiện dịch vụ xin giấy phép xây dựng để nhận thù lao. Nếu công việc hoàn thành như thoả thuận thì ông Lưu Xuân D1 sẽ nhận được số tiền 700.000.000 đồng từ bà H, bị cáo sẽ nhận được 250.000.000 đồng từ ông Xuân D1.

Tuy nhiên, kết quả điều tra đã xác định được từ tháng 8/2019 đến tháng 10/2019, Uỷ ban nhân dân quận Phú Nhuận không tiếp nhận hồ sơ đề nghị cấp giấy phép xây dựng đối với căn nhà số 235-239 Phan Đình Phùng, Phường 15, quận Phú Nhuận. Bị cáo thừa nhận khi biết mình không thể làm giấy tờ xin phép xây dựng, bị cáo đã tìm người làm Giấy phép xây dựng và bản vẽ giả mang tên bà Trương Thị Việt H để nhận tiền. Lẽ ra, khi biết không thể thực hiện theo yêu cầu của bà H thì bị cáo phải có trách nhiệm thông báo cho bên thuê mình thực hiện công việc biết và trả lại số tiền đã nhận là 150.000.000 đồng nhưng bị cáo lại tìm người làm giả giấy phép xây dựng số 364/GPXD ngày 17/9/2019 và bản vẽ giả có dấu của Uỷ ban nhân dân quận Phú Nhuận và dấu Công ty TNHH Dịch vụ Thương mại TLPA để không phải trả lại số tiền 150.000.000 đồng đã nhận và nhận thêm số tiền 100.000.000 đồng còn lại.

Như vậy, ý thức chiếm đoạt của bị cáo được xác định kể từ khi bị cáo biết mình không thể thực hiện được công việc như đã thoả thuận, nhưng đã dùng thủ đoạn gian dối làm Giấy phép xây dựng và bản vẽ giả để bên thuê mình tin là thật nhằm mục đích chiếm đoạt tổng số tiền 250.000.000 đồng. Bị cáo có hành vi đặt làm giấy tờ tài liệu giả và sử dụng giấy tờ giả này thực hiện hành vi trái pháp luật. Trong vụ án này ông Lưu Xuân D1 thực chất đã tự đại diện cho bà H tạm ứng tiền ra để đưa cho bị cáo Bùi Mạnh D thực hiện việc xin giấy phép xây dựng cho bà H. Sau đó ông Lưu Xuân D1 lấy tiền của bà H. Bị cáo nhận thức rõ giấy phép xây dựng giả mang tên bà H thì bà H mới là người phải bỏ tiền ra để thuê dịch vụ xin cấp phép xây dựng. Như vậy thực chất số tiền 250.000.000 đồng bị cáo Mạnh D có được trong vụ án này là chiếm đoạt của của bà H. Do đó bà Trương Thị Việt H là bị hại trong vụ án này.

Hành vi của bị cáo Bùi Mạnh D cung cấp thông tin về lô đất và bản vẽ của căn nhà số 235-239 Phan Đình Phùng, Phường 15, quận Phú Nhuận để đặt làm giả giấy phép xây dựng. Sau khi có giấy phép xây dựng giả mang tên bà Trương Thị Việt H bị cáo đã sử dụng giấy tờ tại liệu giả này thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của bị hại. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử đối với bị cáo về tội “Làm giả giấy tờ, tài liệu của cơ quan tổ chức” nhưng không xem xét đến hành vi “Sử dụng giấy tờ, tài liệu giả của cơ quan tổ chức thực hiện hành vi trái pháp luật” là chưa toàn diện. Tuy nhiên, xét thấy hành vi đặt làm giấy tờ, tài liệu giả và sau đó bị cáo dùng giấy tờ tài liệu giả để chiếm đoạt tài sản được thực hiện liên tục. Các hành vi này được quy định cùng trong một điều luật và để đảm bảo tính có lợi cho bị cáo nên chỉ xét xử bị cáo về tội danh “Làm giả giấy tờ, tài liệu của cơ quan, tổ chức” là phù hợp.

Với các hành vi trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Bùi Mạnh D về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” theo điểm b khoản 3 Điều 341 và “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 3 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Lập luận trên cũng là căn cứ để không chấp nhận quan điểm bào chữa của luật sư bào chữa cho bị cáo cho rằng bị cáo không phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” mà chỉ phạm tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”.

[3] Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và áp dụng cho bị cáo các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: phạm tội lần đầu, nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; đã khắc phục hậu quả, trả lại tài sản chiếm đoạt cho bị hại và được bị hại có đơn đề nghị miễn trách nhiệm hình sự theo điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Đồng thời, xem xét, đánh giá tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo, từ đó, xử phạt bị cáo với mức án 03 (ba) năm tù về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” và 07 (bảy) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; tổng hợp hình phạt chung của cả hai tội là 10 (mười) năm tù là có phần nghiêm khắc đối với bị cáo.

[4] Về kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo: xét thấy ngoài các tình tiết giảm nhẹ mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét cho bị cáo như kể trên, thì tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình và luật sư bào chữa cho bị cáo có nộp thêm các tài liệu thể hiện gia đình bị cáo có công với cách mạng như: ông Bùi Văn Viên là ông nội của bị cáo được tặng huân, huy chương, bằng Tổ quốc ghi công, cha mẹ của bị cáo được tặng thưởng kỷ niệm chương, huy hiệu 30 - 40 năm tuổi Đảng. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới theo điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 nên áp dụng thêm cho bị cáo.

Như vậy, bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự nên cần áp dụng thêm quy định tại Điều 54 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt bị truy tố, xét xử ở tội danh lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Nhận thấy, mức án 07 năm tù về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên là có phần nghiêm khắc nên Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo, giảm cho bị cáo một phần hình phạt. Đối với tội danh làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức, bị cáo đã được xét xử ở đầu khung hình phạt bị truy tố, xét xử nên không có cơ sở để giảm nhẹ thêm cho bị cáo.

Từ những lập luận trên, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm.

Do chấp nhận kháng cáo nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các vấn đề khác không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật. Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Bùi Mạnh D, sửa bản án sơ thẩm số 35/2022/HS-ST ngày 13/4/2022 của Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.

Căn cứ điểm b khoản 3 Điều 341; điểm a khoản 3 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 55 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt Bùi Mạnh D 03 (ba) năm tù về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” và 06 (sáu) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai tội là 09 (chín) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 01/02/2021.

Căn cứ Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội bị cáo Bùi Mạnh D không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

35
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức số 305/2022/HS-PT

Số hiệu:305/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:26/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về