TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 110/2023/HS-PT NGÀY 16/02/2023 VỀ TỘI LÀM GIẢ TÀI LIỆU CỦA CƠ QUAN TỔ CHỨC
Ngày 16/02/2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 807/2022/TLPT-HS ngày 27/10/2022; Do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn A, đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 96/2022/HS-ST ngày 22/9/2022 của Tòa án nhân dân huyện Đ, Thành phố Hà Nội.
Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Văn A, sinh năm 1977; ĐKHKTT và ở: Cụm 1, xã T, huyện Đ, thành phố Hà Nội; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: lao động tự do; Con ông: Nguyễn Duy M (đã chết) và con bà Nguyễn Thị G, sinh năm 1938; Vợ: Nguyễn Thị Hương L, sinh năm 1978; có 03 con, con lớn sinh năm 2000, con nhỏ sinh năm 2019; Tiền án, tiền sự: Không;
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 9/5/2022 đến nay tại trại Tạm giam số 1 - Công an thành phố Hà Nội (có mặt).
Người bị hại:
- Anh Đặng Văn Th, sinh năm 1985; địa chỉ: thôn 2, xã C, huyện Đ, thành phố Hà Nội (có mặt).
- Anh Anh Phùng Văn D, sinh năm 1987 ở thôn 4, xã C, huyện Đ, thành phố Hà Nội (có mặt) Người có quyền lợi N vụ liên quan:
- Bà Nguyễn Thị G, sinh năm 1938 (mẹ bị cáo); uỷ quyền cho anh Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1982; trú tại: Đội 4, ĐT, Phương Đ, huyện Đ, thành phố Hà Nội (có mặt).
- Chị Nguyễn Thị Hương L, sinh năm 1978 (vợ bị cáo); địa chỉ: Cụm 1, xã T, huyện Đ, thành phố Hà Nội (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Do có nhu cầu vay vốn để kinh doanh, khoảng cuối năm 2019 Nguyễn Văn A đưa giấy chứng nhận quyền sử dụng thửa đất số 223, tờ bản đồ số 29, địa chỉ cụm 1, xã T, huyện Đ, thành phố Hà Nội, diện tích 253,9m2 do Uỷ ban nhân dân huyện Đ cấp ngày 28/8/2018 đứng tên hộ ông Nguyễn Văn M (bố đẻ Nguyễn Văn A) là đất trồng cây hàng năm khác cho anh Tạ Văn H, sinh năm 1960 ở số 14 ngõ Phượng T, thị trấn P, huyện Đ, thành phố Hà Nội để nhờ anh H làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất sang tên Nguyễn Văn A và chuyển mục đích sử dụng sang đất ở. Anh H nói là không làm được thì Văn A hỏi vay anh H 20.000.000 đồng (có giấy vay tiền) và để lại giấy chứng nhận mang tên hộ ông Nguyễn Văn M để anh H giữ, hẹn một tuần sau sẽ trả tiền và lấy lại giấy chứng nhận trên. Do làm ăn thua lỗ nên đến nay Văn A vẫn chưa trả tiền anh H và lấy giấy chứng nhận về.
Khoảng giữa năm 2020 Văn A nói chuyện với Nguyễn Văn N, sinh năm 1985 ở cụm 1, xã T, huyện Đ, thành phố Hà Nội (là em họ của Văn A) về việc nhờ anh H ở Phượng T chuyển quyền sử dụng đất từ ông M sang Văn A nhưng không làm được nên không vay được tiền để giải quyết công việc. Qua trao đổi, N nói là có thể làm được nhưng là làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả, N bảo Văn A gửi ảnh chụp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hộ ông Nguyễn Văn M và chứng minh thư, sổ hộ khẩu của Văn A vào Zalo của N để N thuê người làm, chi phí hết 12.000.000 đồng để chuyển từ tên Nguyễn Văn M sang tên Nguyễn Văn A và chuyển mục đích sử dụng. Sau đó, N sử dụng tài khoản facebook “Phiêu du” (do N đăng nhập bằng sim rác nên không nhớ số) nhắn tin trao đổi với tài khoản facebook (không nhớ tài khoản nào) để thuê làm giấy chứng nhận giả theo yêu cầu của Văn A. Khoảng 10 ngày sau N nhận được giấy chứng nhận và mang cho Văn A, khi giao cho Văn A N nói “ Đây là sổ giả, anh cắm ở đâu phải có trách nhiệm nhổ, cái này chỉ để hoãn binh thôi”, Văn A nói “Chú cứ yên tâm anh biết rồi”.
Khoảng tháng 9/2020 Văn A hỏi vay của anh Đặng Văn Th 500.000.000 đồng. Th đồng ý cho Văn A vay với điều kiện lãi 19.500.000 đồng/tháng và Văn A phải tạm thời chuyển nhượng cho Th 1 thửa đất, trong thời hạn 06 tháng phải trả đủ cả gốc và lãi thì Th sẽ chuyển trả lại đất cho Văn A, nếu hết 06 tháng không trả đủ thì Th sẽ chuyển nhượng thửa đất trên cho người khác. Văn A nhất trí. Th ứng trước cho Văn A 30.000.000 đồng. Sau khi thoả thuận xong do Th không đủ 500.000.000 đồng cho Văn A vay nên rủ anh D cùng góp mỗi người 250.000.000 đồng để cho Văn A vay, tiền lãi hàng tháng sẽ chia đôi, D đồng ý.
Thực hiện thoả thuận trên, ngày 21/9/2020 Nguyễn Văn A cùng vợ là Nguyễn Thị Hương L đến Văn phòng công chứng V tại địa chỉ 220 TS, thị trấn P, huyện Đ ký hợp đồng chuyển nhượng thửa đất số 223, tờ bản đồ số 29 ở cụm 1, xã T, có diện tích 204,2m2 có giấy chứng nhận giả mang tên Nguyễn Văn A cho anh D. Sau đó, hai bên bàn giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và đến quán cafe (gần văn phòng công chứng) uống nước. Tại đây, Th sử dụng số tài khoản 0976297397 mở tại Ngân hàng Teckcombank chuyển vào số tài khoản 19032127257019 của Nguyễn Văn A mở tại Ngân hàng Teckcombank 300.000.000 đồng; Nguyễn Văn A nhờ Th chuyển 100.000.000 đồng vào số tài khoản 2211205038472 của Nguyễn Văn Ch, sinh năm 1984 ở Thôn 2, xã C, huyện Đ, thành phố Hà Nội để trả nợ, Th trừ tiền lãi tháng đầu tiên là 19.500.000 đồng, còn 80.500.000 đồng Th hẹn một tuần sau sẽ đưa cho Văn A bằng tiền mặt. Sau một tuần tại nhà Th, Th trừ tiếp số tiền 31.500.000 đồng bao gồm 30.000.000 đồng đã ứng trước đó và 1.500.000 đồng phí công chứng hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất cho D, còn 49.000.000 đồng D giao nốt cho Văn A. Như vậy, số tiền thực tế Văn A đã nhận của Th là 479.000.000 đồng.
Do Văn A không trả tiền gốc và lãi theo thoả thuận, ngày 6/4/2021 D mang toàn bộ hồ sơ thửa đất nhận chuyển nhượng của Nguyễn Văn A đến Văn phòng đăng ký đất đai Hà Nội – chi nhánh Đ làm thủ tục sang tên. Sau khi kiểm tra các thông tin Văn phòng đăng ký thấy các thông tin trên giấy chứng nhận anh D giao nộp không đúng với thông tin do Văn Phòng quản lý (có dấu hiệu làm giả). Ngày 30/6/2021 Văn phòng đăng ký đã có văn bản kiến nghị và chuyển hồ sơ đến Cơ quan điều tra công an huyện Đ.
Vật chứng thu giữ:
- 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ghi nội dung số CH 751399, thửa đất số 223, tờ bản đồ 29, địa chỉ cụm 1, xã T, huyện Đ, thành phố Hà Nội, số vào số cấp GCN CH- 02408 do Sở tài nguyên và môi trường thành phố Hà Nội cấp ngày 17/4/2020 mang tên Nguyễn Văn A do Văn phòng đăng ký đất đai giao nộp.
- 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ghi nội dung số CH 751399, thửa đất số 223, tờ bản đồ số 29, địa chỉ cụm 1, xã T, huyện Đ, thành phố Hà Nội, diện tích 253,9m2, số vào số CH-02408 do Uỷ ban nhân dân huyện Đ cấp ngày 28/8/2018 mang tên hộ ông Nguyễn Duy M mục đích sử dụng là đất trồng cây hàng năm khác do anh Tạ Văn H giao nộp.
Ngày 25/10/2021 cơ quan điều tra ra quyết định trưng cầu giám định số 238, trưng cầu Viện khoa học hình sự - Bộ công an giám định đối với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Nguyễn Văn A.
Tại kết luận giám định số 7842/C09-P5 ngày 10/12/2021 kết luận: “...Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sở hữu nhà và tài sản khác gắn liền với đất số CH 751399 mang tên Nguyễn Văn A ghi ngày 17/4/2020 là giả (bao gồm mẫu in, hình dấu, chữ ký).” Về dân sự: Anh Đặng Văn Th và Phùng Văn D yêu cầu bị cáo Nguyễn Văn A trả lại số tiền đã chuyển cho Văn A vay.
Đối với người trên mạng facebook theo Nguyễn Văn N đã nhận làm giấy chứng nhận do N thuê, N không biết người dùng tài khoản facebook đó là ai nên không có cơ sở xác minh, làm rõ.
Đối với chị Nguyễn Thị Hương L (vợ Văn A) cùng đến văn phòng công chứng để ký vào Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho D nhưng chị L không biết là ký vào giấy tờ gì, không biết Văn A nhờ N làm giấy chứng nhận giả nên không xem xét.
Đối với Tạ Văn H cho Nguyễn Văn A vay 20.000.000 đồng không lãi suất nên xác định là giao dịch dân sự.
Đối với Đặng Văn Th và Phùng Văn D khai cùng cho Văn A vay 500.000.000 đồng, lãi suất 19.500.000 đồng/tháng, nhưng không có tài liệu chứng minh việc vay tiền trên, hơn nữa theo lời khai của Đặng Văn Th và bị cáo Nguyễn Văn A thì việc vay tiền với mức lãi suất như trên chưa cấu thành tội cho vay nặng lãi trong giao dịch dân sự nên không đề cập xử lý.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 96/2022/HSST ngày 22/9/2022 của Tòa án nhân dân huyện Đ, Thành phố Hà Nội.
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn A phạm tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; Bị cáo Nguyễn Văn N phạm tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”.
Áp dụng khoản 1 Điều 341; điểm a khoản 3 Điều 174, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 55; Điều 58 Bộ luật Hình sự:
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn A 06 tháng tù về tội Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức; 08 năm 06 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tổng hợp hình phạt của hai tội, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 09 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 9/5/2022.
Áp dụng khoản 1 Điều 341; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 56; Điều 58 Bộ luật Hình sự:
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn N 09 tháng tù về tội Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức. Tổng hợp hình phạt với 25 tháng tù của Bản án số 131/2021/HSST ngày 25/6/2021 của Toà án nhân dân quận X, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt của hai bản án là 34 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 22/3/2022, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 17/1/2021 đến ngày 26/1/2021.
Về dân sự: Buộc bị cáo Nguyễn Văn A phải trả cho anh Phùng Văn D số tiền 479.000.000 (Bốn trăm bảy chín triệu) đồng.
Ngoài ra Bản án còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 05/10/2022 bị cáo Nguyễn Văn A kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị cáo Nguyễn Văn A giữ nguyên nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm:
- Về hình thức: Đơn kháng cáo của bị cáo nộp trong thời hạn luật định, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận giải quyết yêu cầu kháng cáo của bị cáo theo trình tự phúc thẩm.
- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự không chấp nhận kháng cáo của bị cáo giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt; sửa về vật chứng: trả lại cho gia đình bà Nguyễn Thị G giấy chứng nhận QSD đất số CH 751399, thửa đất số 223, tờ bản đồ số 29, địa chỉ cụm 1, xã T, huyện Đ, thành phố Hà Nội, diện tích 253,9m2, số vào số CH-02408 do Uỷ ban nhân dân huyện Đ cấp ngày 28/8/2018 mang tên hộ ông Nguyễn Duy M, mục đích sử dụng là đất trồng cây hàng năm khác.
Bị cáo không tham gia tranh luận và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt và trả cho bị cáo tài sản như trình bày nêu trên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về hình thức: Đơn kháng cáo của bị cáo đảm bảo hình thức, thời hạn, đủ điều kiện giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
[2] Về tội danh:
Do có nhu cầu vay vốn để làm ăn kinh doanh Nguyễn Văn A đã cung cấp thông tin (chuyển ảnh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên hộ ông Nguyễn Văn M, mục đích sử dụng là đất trồng cây làm ăn khác) cho Nguyễn Văn N để N thuê người trên mạng xã hội facebook làm giấy chứng nhận giả chuyển sang tên Nguyễn Văn A, mục đích sử dụng là đất ở nông thôn với giá 12.000.000 đồng. Sau khi có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả Nguyễn Văn A đã ký Hợp đồng chuyển nhượng cho anh Phùng Văn D với giá 500.000.000 đồng và được Đặng Văn Th là bạn D trả tiền bằng hình thức chuyển khoản và tiền mặt. Tổng số tiền Nguyễn Văn A đã thực nhận là 479.000.000 đồng.
Với hành vi phạm tội trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xử bị cáo Nguyễn Văn A về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan tổ chức” theo khoản 1 Điều 341 và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 3 Điều 174 Bộ luật hình sự là có căn cứ đúng người, đúng tội.
[3] Về hình phạt: Khi quyết định hình phạt Tòa cấp sơ thẩm đã đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, xem xét nhân thân của bị cáo, áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự xử phạt bị cáo 8 năm 6 tháng tù về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và 6 tháng tù về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan tổ chức” là phù hợp với hành vi của bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm không có tình tiết gì mới nên không có căn cứ để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Trong quá trình điều tra, cơ quan điều tra thu giữ 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bản chính của gia đình bị cáo. Tại phiên toà bị cáo và đại diện gia đình bị cáo xin trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên. Xét thấy yêu cầu của bị cáo và gia đình bị cáo là phù hợp nên được chấp nhận.
Anh Nguyễn Văn Th là người có yêu cầu bị cáo bồi thường và là bị hại về hành vi lừa đảo của bị cáo nhưng cấp sơ không đưa vào tham gia tố tụng với tư cách là người bị hại, anh Th không có ý kiến gì. Tuy nhiên cấp phúc thẩm đã triệu tập anh Th đến phiên tòa phúc thẩm; tại phiên toà phúc thẩm anh trình bày anh có cho bị cáo vay 250.000.000 đồng trong số 479.000.000 đồng mà bị cáo đã lừa để chiếm đoạt của anh và anh D; anh và anh D sẽ tự giải quyết về trách nhiệm dân sự mà không yêu cầu đề nghị giải quyết trong vụ án này. Án sơ thẩm đã tuyên buộc bị cáo phải trả cho bị hại là anh D 479.000.000 đồng anh đồng ý và không có yêu cầu đề nghị gì; anh D nhất trí quan điểm của anh Th và cũng không có ý kiến gì đối với quyết định của bản án sơ thẩm nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị Hội đồng xét xử không xem xét.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355 và khoản 1 Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự:
I. Không chấp kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn A về việc xin giảm nhẹ hình phạt.
II. Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số: 96/2021/HSST ngày 22/9/2022 của Tòa án nhân dân huyện Đ, thành phố Hà Nội về quyết định xử lý vật chứng.
1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn A phạm tội “Làm giả tài liệu của cơ quan tổ chức” và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Áp dụng khoản 1 Điều 341; điểm a khoản 3 Điều 174, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 55; Điều 58 Bộ luật Hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án xử phạt bị cáo:
Nguyễn Văn A 8 năm 6 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và 6 tháng tù về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan tổ chức”. Tổng hợp hình phạt của hai tội, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 09 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 9/5/2022.
2. Về vật chứng vụ án: Trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bản chính số CH 751399, số vào số CH-02408 do Uỷ ban nhân dân huyện Đ cấp ngày 28/8/2018 mang tên hộ ông Nguyễn Duy M cho gia đình bà Nguyễn Thị G.
Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn A phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.
III. Các quyết định của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội làm giả tài liệu của cơ quan tổ chức số 110/2023/HS-PT
Số hiệu: | 110/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/02/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về