TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỘC BÌNH, TỈNH LẠNG SƠN
BẢN ÁN 20/2020/HS-ST NGÀY 29/05/2020 VỀ TỘI LÀM GIẢ TÀI LIỆU CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC
Ngày 29 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 15/2020/TLST-HS ngày 23 tháng 4 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16/2020/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 5 năm 2020, Quyết định hoãn phiên tòa số: 04/2020/QĐHPT ngày 21-5-2020 đối với bị cáo:
Nguyễn Thị Huyền C, tên gọi khác: Không; sinh ngày 01-9-1991, tại Thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; nơi đăng ký thường trú và chỗ ở hiện nay: Thôn T, xã M, Thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; giới tính: Nữ; dân tộc: Tày; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Viên chức Trung tâm Y tế huyện L, tỉnh Lạng Sơn; trình độ văn hoá: 12/12; con ông: Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1963 và bà Hoàng Thị H, sinh năm 1965; chồng, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Chưa bị xử lý trách nhiệm hình sự, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật; bị cáo bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1. Bà Hà Thị B, sinh năm 1990; cư trú tại: Thôn Bản L, xã T, huyện L, tỉnh Lạng Sơn, có mặt.
2. Bà Hoàng Kim B, sinh năm 1985; cư trú tại: Thôn O, xã V, huyện L, tỉnh Lạng Sơn, vắng mặt.
3. Ông Vi Trung H, sinh năm 1988; cư trú tại: Số 120, Khu C, thị trấn L, huyện L, tỉnh Lạng Sơn, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 01-11-2014, Nguyễn Thị Huyền C được tuyển dụng vào làm việc tại Trung tâm Y tế huyện L, tỉnh Lạng Sơn theo Quyết định số: 2768/QĐ-SYT ngày 17-10-2014 của Sở Y tế tỉnh Lạng Sơn và được phân công công tác tại Phòng Tổ chức hành chính. Năm 2016 Nguyễn Thị Huyền C được giao theo dõi lĩnh vực quản lý hành nghề, nhiệm vụ là tiếp nhận hồ sơ đề nghị cấp Chứng chỉ hành nghề khám, chữa bệnh của các cá nhân thuộc Trung tâm Y tế huyện L, tỉnh Lạng Sơn tổng hợp gửi Sở Y tế tỉnh Lạng Sơn xem xét cấp Chứng chỉ theo thẩm quyền. Tháng 8 năm 2016, Nguyễn Thị Huyền C tiếp nhận 13 hồ sơ và lệ phí xin cấp Chứng chỉ hành nghề khám, chữa bệnh của 13 cán bộ Trung tâm Y tế huyện L, tỉnh Lạng Sơn, trong đó có hồ sơ của bà Hoàng Kim B là Bác sỹ đa khoa Trạm Y tế xã H (nay là xã M), huyện L, tỉnh Lạng Sơn; ông Vi Trung H là Điều dưỡng Trạm Y tế xã M, huyện L, tỉnh Lạng Sơn và bà Hà Thị B là Điều dưỡng của Khoa Hồi sức cấp cứu - Trung tâm Y tế huyện L, tỉnh Lạng Sơn. Tháng 11 năm 2016 trong quá trình chuyển hồ sơ đến Sở Y tế tỉnh Lạng Sơn, Nguyễn Thị Huyền C đã làm mất 13 hồ sơ trên. Do lo sợ bị kiểm điểm, kỷ luật và sợ mất uy tín trước đồng nghiệp, Nguyễn Thị Huyền C đã không báo cáo lãnh đạo để tìm biện pháp giải quyết. Cuối năm 2017, bà Hoàng Kim B, ông Vi Trung H và bà Hà Thị B đã nhiều lần hỏi Nguyễn Thị Huyền C về việc tại sao họ chưa được cấp Chứng chỉ thì Nguyễn Thị Huyền C đã viện nhiều lý do để trả lời. Tháng 6 năm 2018, sau khi bà Hoàng Kim B và ông Vi Trung H tiếp tục hỏi về việc cấp Chứng chỉ, Nguyễn Thị Huyền C đã lấy một bản Chứng chỉ hành nghề khám, chữa bệnh thật của người khác để phô tô, chỉnh sửa những nội dung thông tin phù hợp với từng người, đóng dấu cơ quan vào bản phô tô và đưa cho bà Hoàng Kim B, ông Vi Trung H. Cụ thể là Chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh số: 002116/LS-CCHN ghi Sở Y tế tỉnh Lạng Sơn cấp ngày 30-10- 2017 (bản phô tô) cấp cho bà Hoàng Kim B và Chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh số: 003238/LS-CCHN ghi Sở Y tế tỉnh Lạng Sơn cấp ngày 09- 6-2016 (bản phô tô) cấp cho ông Vi Trung H. Bà Hoàng Kim B, ông Vi Trung H sau khi nhận Chứng chỉ do tin tưởng nên không có ý kiến thắc mắc gì.
Ngày 26-3-2019 bà Hà Thị B đến gặp Nguyễn Thị Huyền C hỏi về Chứng chỉ hành nghề khám, chữa bệnh thì được trả lời là “ngày mai sẽ có”. Trong ngày 26-3-2019, Nguyễn Thị Huyền C đã sử dụng máy tính của cơ quan có kết nối mạng Internet để tải về một bản mẫu Chứng chỉ hành nghề khám, chữa bệnh sau đó dùng kỹ thuật để chỉnh sửa các nội dung cho phù hợp với thông tin của Hà Thị B, scan chữ ký Giám đốc Sở Y tế tỉnh Lạng Sơn và hình dấu của Sở Y tế tỉnh Lạng Sơn để tạo thành bản Chứng chỉ có nội dung giống bản Chứng chỉ thật. Sau đó sao sang thiết bị USB rồi mang đến quán photocopy của ông Phùng Đức D để in màu, Nguyễn Thị Huyền C dán ảnh của Hà Thị B vào để hoàn thành Chứng chỉ hành nghề khám, chữa bệnh số: 539/SYT-CCHN mang tên Hà Thị B ghi Sở Y tế tỉnh Lạng Sơn cấp ngày 05-10-2016. Ngày 27-3-2019, Nguyễn Thị Huyền C đưa cho Hà Thị B bản Chứng chỉ hành nghề khám, chữa bệnh. Nhận được chứng chỉ, Hà Thị B nghi ngờ bản Chứng chỉ có vấn đề nên đã đến Sở Y tế tỉnh Lạng Sơn để hỏi. Sau khi kiểm tra, phát hiện Chứng chỉ trên là giả, Sở Y tế tỉnh Lạng Sơn đã giữ lại Chứng chỉ này. Sau đó bà Hà Thị B làm đơn tố cáo Nguyễn Thị Huyền C về hành vi làm giả Chứng chỉ hành nghề khám, chữa bệnh với Trung tâm Y tế huyện L, tỉnh Lạng Sơn và Sở Y tế tỉnh Lạng Sơn. Sở Y tế tỉnh Lạng Sơn sau đó đã tiến hành thụ lý, giải quyết và kết luận nội dung tố cáo của Hà Thị B là đúng và chuyển hồ sơ đến Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn xem xét, giải quyết.
Tại bản Kết luận giám định số:199/KLGĐ-PC09 ngày 17-7-2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận:
“1. Chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh số: 539/SYT-CCHN mang tên Hà Thị B, ghi Sở Y tế tỉnh Lạng Sơn cấp ngày 05-10-2016 là giả....
4. Chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh số: 002116/LS-CCHN mang tên Hoàng Kim B ghi Sở Y tế tỉnh Lạng Sơn cấp ngày 30-10-2017 (bản phô tô) và Chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh số: 003238/LS-CCHN mang tên Vi Trung H ghi Sở Y tế tỉnh Lạng Sơn cấp ngày 09-6-2016 (bản phô tô) không đủ yếu tố để giám định là thật hay giả”.
Tại bản Cáo trạng số: 20/CT-VKSLB ngày 21- 4-2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố Nguyễn Thị Huyền C về tội Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức theo quy định tại khoản 1 Điều 341 Bộ luật Hình sự.
Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa Nguyễn Thị Huyền C khai nhận nội dung bản Cáo trạng truy tố bị cáo là đúng, cụ thể: Ngày 26-3-2019, Nguyễn Thị Huyền C sử dụng máy tính của cơ quan có kết nối mạng Internet để tải về một bản mẫu Chứng chỉ hành nghề khám, chữa bệnh sau đó dùng kỹ thuật chỉnh sửa các nội dung phù hợp với thông tin của Hà Thị B, scan chữ ký Giám đốc Sở Y tế tỉnh Lạng Sơn và hình dấu của Sở Y tế tỉnh Lạng Sơn để tạo thành bản Chứng chỉ có nội dung giống bản Chứng chỉ thật. Sau đó sao sang thiết bị USB rồi mang đến quán photocopy để in màu, dán ảnh của Hà Thị B vào để hoàn thành Chứng chỉ hành nghề khám, chữa bệnh số: 539/SYT-CCHN mang tên Hà Thị B ghi Sở Y tế tỉnh Lạng Sơn cấp ngày 05-10-2016. Ngày 27-3-2019 Nguyễn Thị Huyền C đưa cho Hà Thị B bản Chứng chỉ hành nghề khám, chữa bệnh đã làm giả, do nghi ngờ bản Chứng chỉ có vấn đề nên Hà Thị B đã đến Sở Y tế tỉnh Lạng Sơn để hỏi, kiểm tra, phát hiện Chứng chỉ trên là giả, Sở Y tế tỉnh Lạng Sơn đã giữ lại, Nguyễn Thị Huyền C khai nhận làm giả Chứng chỉ không vì mục đích vụ lợi. Sau khi bị phát hiện Nguyễn Thị Huyền C đã nộp lại toàn bộ toàn bộ tiền lệ phí của 13 cá nhân là 8.280.000 đồng mà Nguyễn Thị Huyền C vẫn đang giữ, và tự nguỵên nộp thêm 1.000.000 đồng để khắc phục hậu quả làm lại hồ sơ cho các cán bộ khác, toàn bộ số tiền trên đã nộp cho Trung tâm Y tế huyện L, tỉnh Lạng Sơn.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án bà Hà Thị B trình bày tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa trình bày. Bà nộp hồ sơ cho Trung tâm Y tế huyện L, tỉnh Lạng Sơn để Sở Y tế tỉnh Lạng Sơn cấp Chứng chỉ hành nghề khám, chữa bệnh theo quy định nộp trực tiếp cho Nguyễn Thị Huyền C từ tháng 8 năm 2016 nhưng mãi không thấy Sở Y tế tỉnh Lạng Sơn cấp Chứng chỉ, bà hỏi Nguyễn Thị Huyền C thì Nguyễn Thị Huyền C đưa ra nhiều lý do và hứa hẹn nhiều lần. Ngày 26-3-2019 bà hỏi Nguyễn Thị Huyền C trả lời mai có, ngày 27- 3-2019 Nguyễn Thị Huyền C đưa cho bà một giấy Chứng chỉ hành nghề, khi đưa cho bà không kiểm tra, khi về phòng bà kiểm tra và đối chiếu với giấy chứng chỉ khác bà thấy có điểm nghi ngờ, bà cầm chứng chỉ trên đến Sở Y tế tỉnh Lạng Sơn hỏi và đối chiếu thì phát hiện giấy chứng chỉ Nguyễn Thị Huyền C đưa cho bà là giả, Sở Y tế tỉnh Lạng Sơn giữ lại.
Ông Vi Trung H và bà Hoàng Kim B là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án trình bày tại cơ quan điều tra: Tháng 8 năm 2016 nộp hồ sơ tại Trung tâm Y tế huyện Lôc Bình, tỉnh Lạng Sơn đề nghị Sở Y tế tỉnh Lạng Sơn cấp Chứng chỉ hành nghề khám, chữa bệnh, chờ một thời gian dài chưa thấy được ông Vi Trung H và bà Hoàng Kim B hỏi Nguyễn Thị Huyền C thì được đưa cho Chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh số: 002116/LS-CCHN ghi Sở Y tế tỉnh Lạng Sơn cấp ngày 30-10-2017 (bản phô tô) cấp cho bà Hoàng Kim B và chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh số: 003238/LS-CCHN ghi Sở Y tế tỉnh Lạng Sơn cấp ngày 09-6-2016 (bản phô tô) cấp cho ông Vi Trung H, khi nhận chứng chỉ khám, chữa bệnh bản phô tô bà Hoàng Kim B, ông Vi Trung H hỏi bản gốc thì Nguyễn Thị Huyền C trả lời để vào sổ, ông Vi Trung H, bà Hoàng Kim B tin tưởng nên không có ý kiến gì.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn giữ nguyên quyết định đã truy tố đối với bị cáo về tội Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức; đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức; căn cứ khoản 1 Điều 341; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 36 Bộ luật Hình sự 2015, xử phạt bị cáo từ 06 tháng đến 09 tháng cải tạo không giam giữ. Không khấu trừ thu nhập và không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo vì bị cáo không có tài sản riêng, đi làm xa, lương thấp.
Vật chứng: 03 (ba) chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh lưu trong hồ sơ vụ án bởi sau khi giám định được niêm phong dán kín trở lại phong bì (cũ), có chữ ký cùng tên của giám định viên, trợ lý giám định, điều tra viên của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn và đóng dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự tại vị trí niêm phong sau giám định được hoàn trả cho Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn lưu theo hồ sơ vụ án.
Bị cáo không có tranh luận với đại diện Viện kiểm sát. Nói lời sau cùng, bị cáo nhận thấy hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật, rất hối hận, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án bà Hoàng Kim B và ông Vi Trung H có đơn xin xét xử vắng mặt và đã có lời khai tại cơ quan điều tra. Xét thấy, việc vắng mặt của bà Hoàng Kim B và ông Vi Trung H không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định.
[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[3] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, Kết luận giám định số: 199/KLGĐ-PC09 ngày 17 tháng 7 năm 2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó có đủ căn cứ khẳng định: Ngày 26 tháng 3 năm 2019, tại Trung tâm Y tế huyện L, tỉnh Lạng Sơn, Nguyễn Thị Huyền C đã sử dụng máy tính của cơ quan có kết nối mạng Internet để tải về một bản mẫu Chứng chỉ hành nghề khám, chữa bệnh sau đó dùng kỹ thuật chỉnh sửa các nội dung phù hợp với thông tin để tạo thành bản Chứng chỉ có nội dung giống bản Chứng chỉ thật số: 539/SYT-CCHN mang tên Hà Thị B. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn truy tố bị cáo về tội Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức theo khoản 1 Điều 341 của Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
[4] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo thực hiện thấy rằng : Hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính, đến hoạt động bình thường, đúng đắn của cơ quan nhà nước, tổ chức, xâm phạm đến lợi ích của nhà nước trong hoạt động cấp phép Chứng chỉ hành nghề khám, chữa bệnh của Sở Y tế tỉnh Lạng Sơn. Hành vi của bị cáo chưa gây ra hậu quả, nhưng khi thực hiện hành vi, bị cáo có đủ năng lực hành vi, nhận thức được việc làm của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện, thể hiện sự coi thường pháp luật. Do vậy, hành vi của bị cáo cần được xử lý theo quy định của pháp luật mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa tội phạm.
[5] Về nhân thân, tình tiết giảm nhẹ, tăng tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; hành vi làm giả Chứng chỉ của bị cáo không vì mục đích vụ lợi, chỉ là bột phát vì sợ bị kiểm điểm, mất uy tín với đồng nghiệp, số tiền thu lệ phí của 13 cá nhân, bị cáo đã nộp cho Trung tâm Y tế huyện L, tỉnh Lạng Sơn và tự nguyện nộp một khoản tiền để khắc phục hậu quả làm mất hồ sơ; bị cáo có nhân thân tốt chưa bị kết án, có nơi làm việc và nơi cư trú rõ ràng, ngoài lần phạm tội này luôn chấp hành đúng chính sách pháp luật và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân nơi cư trú, gia đình bị cáo có ông ngoại là Liệt sỹ, cơ quan nơi bị cáo công tác và bà Hà Thị B đã có đơn xin giảm nhẹ hình phạt và miễn trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Tình tiết tăng nặng không có. Xét thấy không cần thiết bắt bị cáo phải chấp hành hình phạt tù, chưa cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà cho bị cáo cải tạo, sửa chữa lỗi lầm tại cơ quan, địa phương cũng đủ sức răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.
[6] Tại khoản 3 Điều 36 Bộ luật Hình sự người bị kết án phải thực hiện nghĩa vụ theo quy định về cải tạo không giam giữ bị khấu trừ thu nhập từ 05% đến 20% và tại khoản 4 Điều 341 của Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo Biên bản xác minh ngày 07-01-2020, lời khai của bị cáo tại phiên tòa, bị cáo mới đi làm, đi làm xa nhà lương thấp, bị cáo sống cùng bố mẹ hàng tháng bố mẹ còn cung cấp, không có tài sản riêng nên không áp dụng khấu trừ thu nhập và hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[7] Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Hà Thị B, bà Hoàng Kim B, ông Vi Trung H không có ý kiến gì và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
[8] Đối với hành vi Nguyễn Thị Huyền C làm Chứng chỉ hành nghề khám, chữa bệnh bản sao cấp cho ông Vi Trung H, bà Hoàng Kim B, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: 02 chứng chỉ (sao y) không đủ yếu tố để giám định thật hay giả, do vậy, cơ quan điều tra không có căn cứ xử lý. Hội đồng xét xử không xem xét.
[9] Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn đã đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo. Đề nghị này là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[10] Về xử lý vật chứng: 03 (ba) Chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh lưu trong hồ sơ vụ án, sau khi giám định được niêm phong dán kín trở lại phong bì (cũ), có chữ ký cùng tên của giám định viên, trợ lý giám định, điều tra viên của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn và đóng dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự tại vị trí niêm phong sau giám định và được hoàn trả cho Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn đã được lưu theo hồ sơ vụ án.
[11] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 341, điểm b, điểm i, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 36 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Căn cứ khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136; Điều 331 của Bộ luật Tố tụng hình sự; căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Huyền C phạm tội Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức.
2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Huyền C 09 tháng cải tạo không giam giữ.
Giao bị cáo cho Trung tâm Y tế huyện L, tỉnh Lạng Sơn và gia đình giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian chấp hành.
3. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Thị Huyền C phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm sung vào ngân sách Nhà nước.
4. Bị cáo, ngườì có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án về tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức (làm giả Chứng chỉ hành nghề khám, chữa bệnh) số 20/2020/HS-ST
Số hiệu: | 20/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lộc Bình - Lạng Sơn |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/05/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về