Bản án về tội làm giả giấy tờ, tài liệu của cơ quan, tổ chức số 104/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 104/2022/HS-PT NGÀY 24/03/2022 VỀ TỘI LÀM GIẢ GIẤY TỜ, TÀI LIỆU CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC

Ngày 24 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 63/2022/TLPT-HS ngày 08 tháng 02 năm 2022 đối với bị cáo Trần Quang H và đồng phạm, do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 01/2022/HSST ngày 04- 01-2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa.

- B cáo có kháng cáo:

1. Trần Quang H, sinh năm 1984, tại Khánh Hòa; Nơi cư trú: 1.31 Chung cu B, V, thành phố N, Khánh Hòa; nghề nghiệp: nguyên cán bộ Công an phường VI; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; trình độ học vấn: 12/12; con ông Trần Văn Đ (chết) và bà Đào Thị V2 (sinh năm: 1945); có vợ Lê Ngọc Bảo Tr (Sinh năm 1986), 01 con sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: không; bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú; vắng mặt.

2. Đỗ Đăng K, sinh năm 1982, tại Khánh Hòa; Nơi cư trú: 45 đường D1, V1, N, Khánh Hòa; chỗ ở hiện nay: thôn T1, V3, N, Khánh Hòa; nghề nghiệp: lao động tự do; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; con ông: Đỗ Tuấn H2 (sinh năm 1954) và bà Lý Thị Tuyết Nh (sinh năm: 1961), vợ Lê Thị Tuyết Ng (sinh năm 1992), 03 con (lớn sinh năm 2007, nhỏ sinh năm 2012); tiền án, tiền sự: không; bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú; vắng mặt.

3. Võ Ngọc H1, sinh năm 1985, tại Khánh Hòa; Nơi cư trú: 05 đường C, V4, N, Khánh Hòa; chỗ ở hiện nay: thôn T1, V3, N, Khánh Hòa; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: 09/12; con ông Võ Ngọc H4 và bà Lê Thị L2; tiền án, tiền sự: không; bị tạm giam từ ngày 13/7/2019 đến ngày 10/12/2019; ngày 10/12/2019 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng biện pháp cho bảo lãnh; vắng mặt.

4. Lê Thanh H2, sinh năm 1976, tại Hưng Yên; nơi cư trú: 06/B1 thôn V5, V3, N, Khánh Hòa; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; nghề nghiệp: nguyên Công an viên; trình độ học vấn: 12/12; con ông Lê Văn Th1 (Sinh năm 1947) và bà Nguyễn Thị T3 (chết), vợ Lý Thị Thiên Ng1 (sinh năm 1988), có 02 con (lớn sinh năm 2008, nhỏ sinh năm 2010); tiền án, tiền sự: không; bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Lê Thanh H2: Luật sư Lê Văn T, Văn phòng luật sư L, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Khánh Hòa; địa chỉ: 102 Nguyễn Trãi, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

[1] Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Từ tháng 01/2018 đến tháng 6/2019, Trần Quang H và đồng phạm đã cùng nhau làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức để đăng ký Hộ khẩu thường trú, chứng minh nhân dân cho nhiều người (Ou Yang C, Hoàng Quang U, Doãn Thị Ngọc M, Nguyễn Thị H4, Lê Thị Th2, Lê Kiều Th3, Hồ Ngọc Th4, Lương Văn S1, Đỗ Thị Thanh D3, Song J) tại địa bàn thành phố N, tỉnh Khánh Hòa nhằm thu lợi bất chính.

Để có được nguồn mẫu hình dấu của Công an xã, phường, thị trấn, thành phố thuộc tỉnh Khánh Hòa và các tỉnh trên toàn quốc, H thu thập những mẫu giấy chuyển hộ khẩu (HK07) có thật hoặc tìm kiếm trên mạng internet để tải về, H giao cho H1 sao chép (Scan), xử lý bằng phần mềm chỉnh sửa hình ảnh (Photoshop) lưu dữ liệu vào thiết bị lưu trữ di động (USB) để sử dụng làm giả tài liệu. Đối với những mẫu hình dấu tròn, dấu tên, chữ ký của các cơ quan, tổ chức trên địa bàn thành phố N, H và H1 sử dụng giấy tờ cá nhân đến các UBND xã, phường để công chứng, chứng thực tài liệu để lấy mẫu con dấu, chữ ký, chức danh thật rồi đưa vào máy tính sao chép (Scan), chỉnh sửa lưu vào USB sử dụng làm giả tài liệu.

H trực tiếp nhận thông tin lai lịch người cần nhập hộ khẩu, sau đó giao cho H1 sử dụng mạng internet, các phần mềm chỉnh sửa hình ảnh Scan, Photoshop để làm giả tài liệu theo trình tự: Làm giả Giấy chuyển hộ khẩu (HK07) gồm hình dấu tròn, hình dấu tên của người có chức vụ của Công an địa phương nơi cắt chuyển khẩu; Làm giả hình dấu tròn, dấu chức danh và dấu tên của Chủ tịch, Phó chủ tịch UBND xã, phường, thị trấn trong các tài liệu Trích lục khai sinh, Trích lục đăng ký kết hôn, Giấy xác nhận nhà ở ổn định rồi mang đi in màu tại các tiệm photocopy là hoàn tất công đoạn làm giả tài liệu, con dấu. Sau đó, H trực tiếp viết nội dung thông tin người cần nhập khẩu trên các tài liệu giả, giả chữ ký người có chức vụ. Sử dụng các tài liệu giả nêu trên để nộp hồ sơ đăng ký nhân khẩu thường trú và đề nghị cấp sổ hộ khẩu tại Đội Cảnh sát Quản lý hành chính về trật tự xã hội Công an thành phố N. Mỗi trường hợp làm giả hồ sơ, H nhận từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng và chia cho H1 từ 300.000 đồng đến 1.500.000 đồng.

Bằng phương thức, thủ đoạn nêu trên, H và các đồng phạm đã làm giả các tài liệu để đăng ký nhân khẩu thường trú và cấp giấy Chứng minh nhân dân tại thành phố N, tỉnh Khánh Hòa cho các trường hợp sau:

Vụ thứ nhất: Khoảng tháng 05/2019, Đỗ Đăng K được You Hai Q (tên gọi khác A Cường, Quốc tịch Trung Quốc) giới thiệu một người bạn tên Ou Yang C (Quốc tịch Trung Quốc) muốn có Hộ chiếu Việt Nam. Biết Ou Yang C là người có quốc tịch Trung Quốc, K vẫn nhận làm với chi phí là 55.000.000 đồng. K nhờ Trần Quang H làm Hộ chiếu Việt Nam cho Ou Yang C với giá tiền 50.000.000 đồng. Để làm được hộ chiếu K đã cung cấp cho H thông tin lai lịch của Ou Yang C là: “Âu Dương H 1982, 26 - MAR (3); Kinh + TG: không; Quê quán: Khánh Hòa” và bàn bạc thống nhất với H cách thức làm hộ chiếu Việt Nam cho Ou Yang C. Sau đó, Trần Quang H đưa thông tin trên và nói H1 làm giả Giấy chuyển hộ khẩu (mẫu HK07) có hình dấu tròn Công an thị trấn T2, giả chữ ký của ông Lâm Văn L4 (Trưởng Công an thị trấn) và làm giả 01 CMND mang tên Trần Dương H có chứng thực bản sao CMND nhằm hợp thức lai lịch, nơi cư trú trước khi chuyển đến N cho Trần Dương H. Thời điểm này, Trần Quang H đang giữ sổ hộ khẩu của ông Lương Văn S1 (Trú tại tổ 11, Ba Làng, V1, N, Khánh Hòa) nên đã lợi dụng để viết tờ khai, phiếu báo thay đổi nhân hộ khẩu đề nghị đăng ký nhập khẩu thường trú cho Trần Dương H. Sau khi nộp các giấy tờ, thủ tục cho Công an thành phố N thì H đã nhận được Hộ khẩu mang tên Trần Dương H, sau đó H làm thủ tục để đề nghị và được cấp Chứng minh nhân dân (CMND) mang tên Trần Dương H. Sau khi có Hộ khẩu thường trú, CMND thì H dẫn Trần Dương H đi làm các thủ tục để cấp Hộ chiếu cho Trần Dương H. Đến ngày nhận Hộ chiếu, H1 cầm giấy ủy quyền đến Phòng Quản lý xuất nhập cảnh Công an tỉnh Khánh Hòa để nhận hộ chiếu cho Trần Dương H thì bị phát hiện.

Vụ thứ hai: Tháng 01/2019, Doãn Văn H5 nhờ và cung cấp thông tin cho Lê Thanh H2 để H2 đăng ký hộ khẩu thường trú cho Hoàng Quang U (sinh 1985, là đối tượng truy nã ) mang tên giả là Hoàng Tuấn Phong (sinh năm 1985, quê quán Hưng Yên), Doãn Thị Ngọc M (sinh 1986) mang tên giả là Đoàn Ngọc Linh (sinh năm 1987, quê quán Hưng Yên) và Nguyễn Thị H4 Mai (sinh 1987) mang tên giả là Nguyễn Thị Mỹ Dung (sinh năm 1985, quê quán thành phố Hồ Chí Minh) tại thôn V5, xã V3, thành phố N với giá 15.000.000 đồng nhưng sau đó H2 chỉ lấy 8.000.000 đồng. Sau đó, Lê Thanh H2 đã nhờ và cung cấp thông tin lai lịch của 03 đối tượng mà Doãn Văn H5 đã cung cấp cho H, để H nhập khẩu 03 đối tượng trên từ thành phố Hồ Chí Minh về thôn V5, xã V3, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa.

Sau khi nhận thông tin từ Lê Thanh H2, Trần Quang H nói Võ Ngọc H1 làm giả Giấy chuyển hộ khẩu cho 03 đối tượng trên từ 71/3/5 Nguyễn Cửu Phú, phường Tân Tạo A, quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh về thôn V5, xã V3, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa, làm giả 03 bản sao CMND của 03 đối tượng với nhân khẩu thường trú ở thành phố Hồ Chí Minh, làm giả hình dấu UBND xã V3 và chữ ký bà Nguyễn Thị T4 (Chủ tịch UBND xã) trong tài liệu Đơn xin xác nhận nhà ở ổn định nhằm hợp thức việc có nhà ở cho 03 đối tượng này. H trực tiếp nộp giấy tờ giả cho ông Phạm Ngọc Hoàng H2 (cán bộ Đội QLHC Công an thành phố N) tiếp nhận và đề xuất cấp sổ hộ khẩu số 330275024 mang tên chủ hộ Đoàn Ngọc Linh vào ngày 15/01/2019. Sau đó, H giao lại cho H2 để nhận số tiền 5.000.000 đồng.

Vụ thứ ba: Tháng 01/2018, Lê Thanh H2 đã nhận làm giấy tờ, tài liệu đăng ký hộ khẩu thường trú cho bà Lê Thị Th2 và bà Lê Kiều Th3 (Việt kiều Australia) với giá 10.000.000 đồng. H2 liên lạc với Đỗ Đăng K, cung cấp thông tin lai lịch của 02 người trên và 01 sổ hộ khẩu gia đình tại địa chỉ số 18 Đường NC, phường V1, thành phố N đứng tên chủ hộ Nguyễn Thị Mỹ H6. H2 nhờ K đăng ký hộ khẩu cho bà Th3, bà Th2 đến số 18 Đường NC, phường V1, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa với giá 8.000.000 đồng. K đã làm giả tài liệu Giấy chuyển hộ khẩu (mẫu HK07) có hình dấu tròn của Công an xã Trần Thới, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau và giả chữ ký ông Tạ Việt B2 (Trưởng Công an xã) để cắt chuyển hộ khẩu bà Th3 kèm theo bà Th2 từ xã Trần Thới, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau đến số 18 Đường NC, phường V1, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. Nhờ người viết Tờ phiếu báo nhân hộ khẩu (mẫu HK02) giả chữ viết và chữ ký của bà H6 tại mục “Ý KIẾN CỦA CHỦ HỘ” để bảo lãnh nhập khẩu và viết 02 tờ khai nhân khẩu (mẫu HK01) cho bà Th3, bà Th2. K mang tài liệu giả đến Công an phường V1 nhờ ông Nguyễn Trường P1-Công an phường V1) để trình ông Nguyễn Giáo K, (Phó trưởng Công an phường VI) ký xác nhận đủ điều kiện nhập hộ khẩu cho bà Th3, bà Th2 vào hộ bà H6. Sau đó, K mang toàn bộ tài liệu đến Công an thành phố N nộp cho ông Đặng Đức Kh và ông Võ Thành Q1 (Cán bộ Đội cảnh sát QLHC Công an thành phố N) tiếp nhận, đề xuất và được cấp Sổ hộ khẩu số 330243381 mang tên chủ hộ bà Lê Thị Th2 kèm theo bà Lê Kiều Th3 vào ngày 29/01/2018.

Sau khi có sổ hộ khẩu, đến tháng 3/2018, H2 tiếp tục nhận lời giúp bà Th2 làm CMND (vì bà Th2 chỉ biết năm sinh 1932, không biết ngày, tháng, không có giấy tờ gốc để chứng minh lai lịch) với giá 1.500.000 đồng. H2 cung cấp thông tin lai lịch bà Th2, sinh ngày 31/12/1932 và nhờ H làm Trích lục khai sinh để bổ túc hồ sơ đăng ký cấp CMND với giá 1.500.000 đồng. H đã nói H1 làm giả tài liệu “Trích lục khai sinh”, giả hình dấu tròn UBND phường VI và dấu tên cùng chữ ký ông Trần Văn T7 (Phó Chủ tịch phường) xác nhận Trích lục khai sinh cho bà Th2, sinh ngày 31/12/1932. Đến ngày 25/9/2018, H2 dẫn bà Th2 đi làm thủ tục và đã được cấp CMND số 225946889 vào ngày 27/9/2018.

Vụ thứ tư: Năm 2011, Hồ Ngọc Th4 sử dụng Hộ chiếu du lịch do Hoa Kỳ cấp để nhập cảnh vào Việt Nam và tạm trú tại phường V4, thành phố N. Tháng 6/2018, Th4 không quay trở lại Hoa Kỳ mà có mong muốn ở lại Việt Nam sinh sống. Vì vậy, Th4 tìm gặp Lê Mạnh D2 và nhờ D2 làm hộ khẩu thường trú tại thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. D2 nhận lời và nhận của Th4 số tiền 10.000.000 đồng. Sau đó D2 đã liên lạc với Lê Xuân Th5 (là Xã Đội trưởng xã K1, huyện K2, tỉnh Khánh Hòa) nhờ Th5 xin hoặc mua giúp D2 một tờ Giấy chuyển hộ khẩu để trống phần nội dung thông tin người chuyển khẩu nhưng phải có chữ ký và con dấu thật của Công an các xã ở huyện K2. Th5 đã hỏi xin và được Ngô Xuân K4 (Trưởng Công an xã K3, huyện K2, tỉnh Khánh Hòa) Giấy chuyển hộ khẩu khống có chữ ký của ông Nguyễn Văn Đấu (Phó Trưởng Công an xã) và con dấu của Công an xã K3. Sau đó, Th5 nhờ người mang xuống N đưa cho D2. Sau khi có được Giấy chuyển hộ khẩu khống, D2 tìm đến Trần Quang H cung cấp Giấy chuyển hộ khẩu khống, thông tin cá nhân của Th4 và nhờ H điền vào Giấy chuyển hộ khẩu khống, chuyển hộ khẩu cho Th4 từ xã K3, huyện K2 về đăng ký thường trú tại thành phố N và trả cho H số tiền 700.000 đồng. Sau đó, H đã điền thông tin lai lịch của Th4 vào giấy chuyển hộ khẩu và đưa cho H1 làm giả các tài liệu Trích lục khai sinh, Đơn xác nhận nhà ở ổn định và các tờ khai nhân hộ khẩu đăng ký thường trú cho Th4 tại thành phố N. H mang hồ sơ đến Đội QLHC Công an thành phố N nộp cho ông Trần Thanh (là cán bộ đội QLHC) để đề xuất lãnh đạo phê duyệt và cấp sổ hộ khẩu số 330266644 vào tháng 7/2018. H đã giao sổ hộ khẩu trên cho D2, để D2 giao cho Th4 và nhận đủ số tiền 10.000.000 đồng. Sau khi có hộ khẩu, Th4 đã sử dụng để được cấp CMND số 225944929 vào ngày 24/01/2019. Ngày 22/4/2019, Th4 sử dụng sổ hộ khẩu và CMND nói trên để đăng ký cấp hộ chiếu phổ thông tại Phòng QLXNC Công an tỉnh Khánh Hòa thì bị phát hiện.

Vụ thứ năm: Lương Văn S1 có HKTT tại BT, xã E, huyện C1, tỉnh Đăk Lăk nhưng sinh sống tại thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. Để đủ điều kiện cho con đi học tại thành phố N, tỉnh Khánh Hòa, Sáo đã nhờ H đăng ký thường trú cho vợ và con về địa chỉ Tổ 11 HT, phường V1, thành phố N, đồng thời cung cấp cho H giấy khai sinh của bản thân cùng vợ là Nguyễn Thị H4 Loan và con tên Lương Gia Thiện. H nhận lời và lấy của Sáo số tiền 2.000.000 đồng. H không sử dụng giấy tờ thật của Sáo để đăng ký thường trú mà tự ý thay đổi thông tin nơi thường trú của Lương Văn S1 là xã E1, huyện E2, tỉnh Đắk Lắk và giao cho H1 làm giả 02 chứng thực bản sao giấy CMND mang tên Sáo và Loan để giả nơi thường trú, làm giả tài liệu Đơn xin xác nhận nhà ở ổn định có xác nhận của UBND phường V1. H mang hồ sơ đến Công an thành phố N nộp cho ông Phạm Ngọc Hoàng H2 (cán bộ Đội QLHC) tiếp nhận để đề xuất cấp sổ hộ khẩu số 330276750 vào tháng 4/2019.

Vụ thứ sáu: Tháng 4/2019, Phạm Văn T8 nhờ H làm thủ tục xác nhận tình trạng hôn nhân cho cháu của T8 là Đỗ Thị Thanh D3 để đủ điều kiện đăng ký kết hôn. H đã nói H1 làm giả tài liệu “Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân” giả hình dấu tròn của UBND phường V6 và chữ ký của ông Trần Quang Th6 (Phó chủ tịch UBND phường) để xác nhận tình trạng hôn nhân cho D3. Ngày 19/4/2019, D3 sử dụng Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân đến UBND phường P2 để đăng ký kết hôn thì bị phát hiện.

Vụ thứ bảy: Tháng 3/2019, Song J (Quốc tịch Trung Quốc) nhập cảnh vào Việt Nam với mục đích ở lại Việt Nam lâu dài, Song J đã gặp 01 người có tên thường gọi “A Hào” (không xác định nhân thân, lai lịch) và đưa số tiền 60.000 Nhân dân tệ cho “A Hào” tìm người có thể giúp Song J có giấy tờ tùy thân Việt Nam. “A Hào” đã hỏi người bạn là You Hai Q (A Cường), được “A Cường” giới thiệu Đỗ Đăng K. K nhận lời và nhờ Trần Quang H đăng ký thường trú cho trường hợp của Song J (Nguyễn Khang Tinh) với giá 5.000.000 đồng, H đồng ý và nhận thông tin từ K, sau đó H yêu cầu Võ Ngọc H1 làm giả Giấy chuyển hộ khẩu (HK07), giả hình dấu Công an thành phố Quảng Ngãi và làm giả 01 bản CMND mang tên Nguyễn Khang Tinh có hình dấu Công an tỉnh Quảng Ngãi in màu trên giấy cứng rồi giao lại cho H. H trực tiếp giả chữ ký ông Đại tá TRẦN VĂN D2 - Trưởng Công an thành phố Quảng Ngãi trong Giấy chuyển hộ khẩu và mang bản CMND đi công chứng bản sao tại phường V1 nhằm giả lai lịch, nơi cư trú trước khi chuyển đến N cho người mang tên Nguyễn Khang Tinh. H đã trình tờ phiếu báo trên để ông Nguyễn Giáo K (Phó trưởng Công an phường V1) xác nhận đủ điều kiện nhập khẩu. H tập hợp hoàn chỉnh các tài liệu đã làm mang đến nộp cho Phạm Ngọc Hoàng H2 (cán bộ Đội Cảnh sát QLHC về TTXH) tiếp nhận và được cấp sổ hộ khẩu số 330261054. Sau đó, H giao sổ hộ khẩu này cho K và lấy số tiền 5.000.000 đồng. Sau khi có sổ hộ khẩu, K yêu cầu H làm giúp đơn đề nghị cấp CMND, H đã viết đơn đề nghị cấp CMND mang tên Nguyễn Khang Tinh trình ông Nguyễn Giáo K (Phó trưởng Công an phường VI) ký xác nhận rồi giao lại cho K. Ngày 07/5/2019, K trực tiếp dẫn Song J đến Phòng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội Công an tỉnh Khánh Hòa sử dụng Sổ hộ khẩu và đơn đề nghị cấp CMND để làm thủ tục đăng ký cấp CMND. K trực tiếp viết vào Tờ khai Chứng minh nhân dân nội dung thông tin lai lịch giả là Nguyễn Khang Tinh (Không ký tên) đồng thời nhờ ông Nguyễn Viết D2 (cán bộ Phòng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội Công an tỉnh Khánh Hòa) làm nhanh thủ tục chụp ảnh và lăn tay để che giấu hành vi làm giả. Song J đã cố tình không có lời nói và hành động để che giấu nhân thân là người Trung Quốc. Ngày 10/5/2019, Phòng Cảnh sát QLHC về TTXH đã cấp CMND số 225952132 mang tên Nguyễn Khang Tinh, sinh ngày 31/8/1992, Hộ khẩu thường trú: Tổ 17, HT, VI, N, Khánh Hòa, sau đó K giao lại cho Song J. Song J đã sử dụng giấy CMND và Sổ hộ khẩu mang tên Nguyễn Khang Tinh đăng ký mở 03 tài khoản tại Ngân hàng Agribank Khánh Hòa và Vietcombank Khánh Hòa, đăng ký mua xe ôtô (chưa mua). Ngày 04/8/2020, qua công tác kiểm tra hành chính về cư trú người nước ngoài, Phòng Quản lý xuất nhập cảnh đã phát hiện đối tượng Song J có quốc tịch Trung Quốc nhung sử dụng sổ hộ khẩu và CMND mang tên Nguyễn Khang Tinh, quốc tịch Việt Nam.

Các Kết luận giám định số 402 ngày 05/8/2019, số 637 ngày 12/11/2019, số 275 ngày 04/6/2019, số 520 ngày 30/9/2019, số 688 ngày 18/12/2019, số 375 ngày 25/7/2019, số 505 ngày 12/8/2020, số 508 ngày 12/8/2020 và số 515 ngày 27/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Khánh Hòa kết luận: các tài liệu, con dấu, chữ ký trong các trường hợp trưng cầu giám định là tài liệu giả, được làm giả bằng phương pháp in màu, chữ ký giả.

[2] Tại Bản án hình sự sơ thẩm s 01/2022/HSST ngày 04/01/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa đã quyết định:

- Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 341, điểm a khoản 1 Điều 46, điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Trần Quang H 04 (Bốn) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Làm giả giấy tờ, tài liệu của cơ quan, tổ chức”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án. về biện pháp tư pháp: Buộc bị cáo Trần Quang H phải nộp ngân sách Nhà nước số tiền thu lời bất chính là 29.400.000 đồng

- Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 341, điểm a khoản 1 Điều 46, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Võ Ngọc H1 04 (Bốn) năm tù về tội “Làm giả giấy tờ, tài liệu của cơ quan tổ chức”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành án. Nhưng được trừ thời hạn tạm giam từ ngày 13/7/2019 đến ngày 10/12/2019. Về biện pháp tư pháp: Buộc bị cáo Võ Ngọc H1 phải nộp ngân sách Nhà nước số tiền thu lợi bất chính là 5.800.000 đồng

- Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 341, điểm a khoản 1 Điều 46, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 đối với bị cáo Đỗ Đăng K; xử phạt bị cáo Đỗ Đăng K 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Làm giả giấy tờ, tài liệu của cơ quan tổ chức”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành án. Về biện pháp tư pháp: Buộc bị cáo Đỗ Đăng K phải nộp ngân sách Nhà nước số tiền thu lợi bất chính là 43.000.000 đồng.

- Căn cứ điểm b, c khoản 2 Điều 341, điểm a khoản 1 Điều 46, điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, khoản 2 Điều 54 của Bộ luật hình sự năm 2015 đối với bị cáo Lê Thanh H2; xử phạt bị cáo Lê Thanh H2 01 (Một) năm tù về tội “Làm giả giấy tờ, tài liệu của cơ quan tổ chức” Thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành án. về biện pháp tư pháp: Buộc bị cáo Lê Thanh H2 phải nộp ngân sách Nhà nước số tiền thu lợi bất chính là 5.000.000 đồng.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về phần trách nhiệm hình sự bị cáo khác, phần xử lý vật chứng, án phí theo quy định của pháp luật.

[3] Kháng cáo:

Ngày 10-01-2022 bị cáo Đỗ Đăng K kháng cáo đề nghị hủy bản án sơ thẩm với lý do bị cáo tin tưởng Trần Quang H là Công an nên nhờ H làm giấy tờ cho người Trung Quốc, nhưng là nhờ làm đúng quy định pháp luật, còn hành vi mà bị cáo H làm giả giấy tờ là do H tự ý làm, bị cáo K không biết. Việc làm giả giấy tờ này chưa gây hậu quả nên chỉ là vi phạm hành chính.

Ngày 17-01-2022 bị cáo Lê Thanh H2 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo, với lý do bị cáo không biết, không tham gia làm giả giấy tờ với H, K; bị cáo chỉ môi giới giữa những người cần làm giấy tờ với H, K nhằm hưởng hoa hồng; hiện bị cáo có hoàn cảnh khó khăn.

Ngày 17-01-2022 bị cáo Trần Quang H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt vì hiện bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, có mẹ già và con nhỏ.

Ngày 19-01-2022 bị cáo Võ Ngọc H1 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt

[4] Tại phiên tòa phúc thm:

Các bị cáo Trần Quang H, Đỗ Đăng K, Võ Ngọc H1 vắng mặt, không có đơn rút kháng cáo; hồ sơ kháng cáo của các bị cáo không có cung cấp thêm tài liệu chứng cứ mới.

Bị cáo Lê Thanh H2 có mặt, giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, trình bày lý do kháng cáo là bị cáo vô tình không biết các bị cáo K, H làm giả giấy tờ, do suy nghĩ là các bị cáo này làm được các loại giấy tờ hợp pháp, bị cáo chỉ là người môi giới giúp để hưởng hoa hồng.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phúc thẩm phát biểu ý kiến: Tại giai đoạn phúc thẩm, Thẩm phán, Thư ký Tòa án, những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Phiên tòa có bị cáo vắng mặt nên đề nghị căn cứ điểm c khoản 1 Điều 351 của

Bộ luật Tố tụng hình sự để xét xử. Về nội dung kháng cáo: những tài liệu đã thu thập trong hồ sơ đủ cơ sở để kết tội các bị cáo và hình phạt của Bản án sơ thẩm là đúng pháp luật, các bị cáo kháng cáo nhưng không có tài liệu chứng cứ mới, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tòa án cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại phiên tòa phúc thẩm, vắng mặt các bị cáo bị cáo Trần Quang H, Đỗ Đăng K, Võ Ngọc H1, không có đơn xin hoãn phiên tòa. Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ điểm c khoản 1 Điều 351 của Bộ luật Tố tụng hình sự để tiến hành xét xử.

[2] Về hành vi phạm tội và tội danh:

Từ tháng 01/2018 đến tháng 6/2019, Trần Quang H, Võ Ngọc H1, Đỗ Đăng K, Lê Thanh H2, Song J đã cùng nhau làm giả nhiều con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức để đăng ký thường trú cho nhiều người được cấp sổ hộ khẩu, Chứng minh nhân dân tại thành phố N, tỉnh Khánh Hòa nhằm thu lợi bất chính. Trong đó, H thu lợi bất chính số tiền 29.400.000 đồng, H1 thu lợi bất chính số tiền 5.800.000 đồng, K thu lợi bất chính số tiền 43.000.000 đồng, H2 thu lợi bất chính số tiền 5.000.000 đồng. Do đó, Bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa đã quyết định bị cáo Trần Quang H, Đỗ Đăng K, Võ Ngọc H1 phạm tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” theo điểm a khoản 3 Điều 341 Bộ luật Hình sự; bị cáo Lê Thanh H2 phạm tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” theo các điểm b, c khoản 2 Điều 341 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo Trần Quang H, bị cáo cầm đầu vụ án, trực tiếp thực hiện hành vi làm giả con dấu, tài liệu và móc nối, chỉ huy bị cáo Võ Ngọc H1 cùng thực hiện hành vi làm giả 17 (mười bảy) tài liệu (có hình du và chữ ký) của Cơ quan, tổ chức để đăng ký nhập hộ khẩu thường trú cho 06 (sáu) trường hợp đã được cấp Sổ hộ khẩu và 01 trường hợp đăng ký kết hôn và nhận được số tiền 35.200.000đ (ba mươi lăm triệu hai trăm nghìn đồng), bị cáo đã chia cho Võ Ngọc H1 tổng số tiền là 5.800.000 đồng (năm triệu tám trăm nghìn đồng), bị cáo H đã hưởng lợi 29.400.000 đồng (hai mươi chín triệu bn trăm nghìn đồng). Bị cáo nhiều lần thực hiện hành vi phạm tội, cho nên cần áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ như khai báo thành khẩn, thể hiện sự ăn năn hối cải. Bị cáo có nhân thân lai lịch trong sạch, gia đình có truyền thống Cách mạng, bản thân nguyên là cán bộ Công an có quá trình cống hiến, đã tự nguyện nộp số tiền thu lợi bất chính là 5.400.000đ (năm triệu bốn trăm nghìn đồng). Được Cơ quan điều tra đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm sự vì đã hợp tác khai báo trung thực, thành khẩn, cung cấp tài liệu, chứng cứ quan trọng để khởi tố vụ án phát hiện đồng phạm. Do đó Bản án hình sự sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 để xử phạt bị cáo 04 năm 06 tháng tù là đúng pháp luật. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, nhưng không có tình tiết giảm nhẹ mới, nên không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

[4] Xét kháng cáo của bị cáo Đỗ Đăng K: bị cáo đã thực hiện các hành vi phạm tội sau:

- Bị cáo Đỗ Đăng K nhận thông tin từ bị cáo Lê Thanh H2 để làm giả các giấy tờ, tài liệu cần thiết để làm thủ tục cấp Hộ khẩu cho bà Lê Thị Th2 và bà Lê Kiều Th3. Cụ thể: tháng 01/2018, bị cáo Đỗ Đăng K đã trực tiếp thực hiện hành vi làm giả tài liệu Giấy chuyển hộ khẩu (giả hình dấu tròn của Công an xã Trần Thói, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau và giả chữ ký ông Tạ Việt Bắc - Trưởng Công an xã); nhờ người viết Tờ phiếu báo nhân hộ khẩu (mẫu HK02) giả chữ viết và chữ ký của bà Nguyễn Thị Mỹ H6 tại mục “Ý KIẾN CỦA CHỦ HỘ” để bảo lãnh nhập khẩu và viết 02 (hai) tờ khai nhân khẩu (mẫu HK01) cho Lê Thị Th2 và Lê Kiều Th3 để cắt chuyển hộ khẩu Lê Thị Th2 kèm theo Lê Kiều Th3 (cả hai người là Việt kiều Australia) từ xã Trần Thói, huyện Cái Nước, Cà Mau đến số 18 Đường NC, V1, N, hưởng lợi số tiền 8.000.000đ (tám triệu đồng). Đỗ Đăng K đã làm giả tài liệu Giấy chuyển hộ khẩu, giả chữ viết, chữ ký để bảo lãnh nhập khẩu, sử dụng tài liệu giả để Công an phường V1 xác nhận đủ điều kiện nhập hộ khẩu, tiếp tục sử dụng tài liệu giả để đăng ký thường trú và cấp hộ khẩu cho Lê Thị Th2 và Lê Kiều Th3 vào tháng 01/2018.

- Bị cáo Đỗ Đăng K không thừa nhận có nhận tiền và thông tin từ A Hào và nhờ bị cáo Trần Quang H làm Hộ khẩu, Chứng minh nhân dân cho bị cáo Song J. Tuy nhiên, theo các lời khai của bị cáo H, người làm chứng A Cường, giám định chữ viết trên tờ khai chứng minh nhân dân của bị cáo Song J, vật chứng thu giữ được thì có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Đỗ Đăng K có nhận tiền và thông tin từ A Hào, sau đó đã cung cấp thông tin giả cho bị cáo H để làm các giấy tờ, thủ tục cần thiết để được cấp Hộ khẩu, Chứng minh nhân dân và Hộ chiếu Việt Nam cho bị cáo Song J. Cụ thể: cuối tháng 4/2019, bị cáo Đỗ Đăng K đã nhận làm giả tài liệu cho bị can SONG JIA HAO (sinh ngày 04/02/1992) có giấy tờ tùy thân mang lai lịch giả là Nguyễn Khang Tinh, sinh ngày 31/8/1992. Bị cáo K móc nối với bị cáo Trần Quang H, cung cấp thông tin giả Nguyễn Khang Tinh, sinh ngày 31/8/1992 và yêu cầu H thực hiện hành vi làm giả tài liệu đăng ký thường trú, cấp sổ hộ khẩu cho Nguyễn Khang Tinh và thỏa thuận trả cho H số tiền 5.000.000đ (Năm triệu đồng). Trần Quang H giao cho Võ Ngọc H1 làm giả 02 (hai) tài liệu Giấy chuyển hộ khẩu và CMND mang tên Nguyễn Khang Tinh và cắt chuyển hộ khẩu từ 102/3 Tế Hanh, phường Trương Quang Trọng, TP. Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi về đăng ký hộ khẩu thường trú tại Tổ 17 HT, V1, N, Khánh Hòa và được cấp sổ hộ khẩu số 330261054 mang tên Nguyễn Khang Tinh vào tháng 5/2019. Sau đó, K sử dụng sổ hộ khẩu trên dẫn Song Jia Hao đến Phòng Cảnh sát Quản lý hành chính - Công an tỉnh Khánh Hòa để làm thủ tục đăng ký cấp CMND. K trực tiếp viết vào Tờ khai CMND với thông tin lai lịch giả Nguyễn Khang Tinh, sinh 31/8/1992, nguyên quán Khánh Hòa và hướng dẫn Song Jia Hao che giấu nhân thân là người Trung Quốc để thực hiện lăn tay, chụp ảnh, nhận dạng hoàn tất thủ tục và được cấp CMND số 225952132 ngày 10/5/2019.

- Tháng 5/2019, bị cáo Đỗ Đăng K nhận để làm giả tài liệu cho người Trung Quốc có tên OU YANG C (Âu Dương H) có được giấy tờ, hộ chiếu Việt Nam. Đỗ Đăng K đã móc nối với Trần Quang H thỏa thuận số tiền là 50.000.000 đồng để H nhận làm cho K. Sau đó, Đỗ Đăng K thống nhất với Trần Quang H thay đổi lai lịch người Trung Quốc thành người Việt Nam mang tên Trần Dương H, sinh ngày 26/3/1982 và giúp sức tích cực cho Trần Quang H làm giả 02 (hai) tài liệu Giấy chuyển hộ khẩu và Bản sao CMND có hình dấu tròn UBND phường V1 và chữ ký ông Nguyễn Hữu Bách - Phó chủ tịch chứng thực lai lịch giả mang tên Trần Dương H và cắt chuyển hộ khẩu từ 247 đường 3/2, khóm 2, thị trấn T2, huyện T2, tỉnh Trà Vinh về đăng ký hộ khẩu thường trú tại Tổ 11 HT, V1, N, K đã chi ứng trước cho Trần Quang H số tiền 20.000.000 đồng.

Bị cáo Đỗ Đăng K biết Ou Yang C (Quốc tịch Trung Quốc) nhung vẫn nhận lời và nhờ Trần Quang H làm Hộ chiếu Việt Nam cho Ou Yang C, sau đó K đã thỏa thuận với H và cung cấp thông tin giả để Trần Quang H làm Hộ khẩu, Chứng minh nhân dân, Hộ chiếu Việt Nam cho Ou Yang C. Bị cáo K không tham gia vào các quy trình làm hộ khẩu, chứng minh nhân dân để được cấp hộ chiếu Việt Nam cho Ou Yang C, nhung bị cáo K đã thỏa thuận và cung cấp thông tin giả cho bị cáo H để làm các giấy tờ, thủ tục cần thiết để được cấp Hộ khẩu, Chứng minh nhân dân và Hộ chiếu Việt Nam cho Ou Yang C. Do đó bị cáo Đỗ Đăng K là đồng phạm với bị cáo Trần Quang H.

Tổng cộng bị cáo Đỗ Đăng K đồng phạm làm giả 09 (Chín) tài liệu. Bị cáo nhiều lần thực hiện hành vi phạm tội nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ Luật hình sự. Bản án sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo như: có nhân thân tốt, gia đình có truyền thống cách mạng, bản thân nguyên là cán bộ Công an có quá trình cống hiến, được quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 để xử phạt bị cáo 03 năm 06 tháng tù là nghiêm minh, phục vụ cho công tác đấu tranh phòng chống loại tội phạm này. Bị cáo kháng cáo nhưng không có tài liệu chứng cứ mới làm thay đổi nội dung vụ án và tình tiết giảm nhẹ mới, nên không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

[5] Đối với bị cáo Võ Ngọc H1 là người được Trần Quang H móc nối, phân công nhiệm vụ thực hiện hành vi làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức. Bị cáo đã trực tiếp làm giả 17 (mười bảy) tài liệu (có hình du và chữ ký) của Cơ quan, tổ chức để đăng ký nhập khẩu thường trú cho 06 (Sáu) trường hợp đã được cấp Sổ hộ khẩu và 01 trường hợp đăng ký kết hôn, hưởng lợi tổng số tiền 5.800.000 đồng. Bị cáo nhiều lần thực hiện hành vi phạm tội nên cần áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ Luật hình sự. Bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ như khai báo thành khẩn, thể hiện sự ăn năn hối cải, bị cáo có nhân thân tốt, bản thân nguyên là cán bộ Công an có quá trình cống hiến. Do đó, Bản án hình sự sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 để xử phạt bị cáo 04 năm tù là đứng pháp luật. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, nhưng không có tình tiết giảm nhẹ mới, nên không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

[6] Đối với bị cáo Lê Thanh H2, là đối tượng đồng phạm giúp sức cho các bị cáo Trần Quang H và Đỗ Đăng K thực hiện hành vi làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức. Bị cáo đã đồng phạm với bị can H làm giả 02 (hai) tài liệu (có hình dấu và chữ ký) để đăng ký nhập khẩu thường trú cho 01 (một) trường hợp gồm Đoàn Ngọc Linh, Hoàng Tuấn Phong và Nguyễn Thị Mỹ Dung đã được cấp Sổ hộ khẩu; bị cáo đồng phạm với bị cáo K làm giả 01 (một) tài liệu Giấy chuyển hộ khẩu (có hình dấu và chữ ký) để đăng ký nhập khẩu thường trú cho 01 (một) trường hợp gồm Lê Thị Th2 và Lê Kiều Th3, hưởng lợi tổng số tiền là 5.000.000 đồng (năm triệu đồng) và đồng phạm bị cáo H làm giả 01 (một) tài liệu Trích lục khai sinh để đăng ký cấp CMND cho Lê Kiều Th3. Tổng cộng bị cáo Lê Thanh H2 đồng phạm làm giả 04 (Bốn) tài liệu. Bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ như: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, có nhân thân tốt, gia đình có truyền thống cách mạng, bản thân nguyên là Trưởng thôn V5, xã V3, cán bộ Công an tỉnh Khánh Hòa và Công an xã V3, có quá trình cống hiến cho Nhà nước, đã tự nguyện nộp số tiền 5.000.000đ (Năm triệu đồng) thu lợi bất chính. Được Cơ quan điều tra đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm sự vì đã hợp tác khai báo trung thực, thành khẩn, cung cấp tài liệu, chứng cứ quan trọng để khởi tố vụ án phát hiện đồng phạm. Phạm tội lần đầu và vai trò đồng phạm của bị cáo trong vụ án không đáng kể. Do đó, Bản án sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 2 Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015 để xử phạt bị cáo 01 năm tù. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, nhung không có tình tiết giảm nhẹ mới, đồng thời do bị cáo phạm tội nhiều lần nên không đủ điều kiện để được hưởng án treo; do đó không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

[7] Các quyết định khác còn lại của Bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không xem xét.

[8] Về án phí hình sự phúc thẩm: Các bị cáo Trần Quang H, Đỗ Đăng K, Võ Ngọc H1, Lê Thanh H2, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm, theo điểm a khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Bởi các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự; không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Trần Quang H, Đỗ Đăng K, Võ Ngọc H1, Lê Thanh H2, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 01/2022/HSST ngày 04-01-2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa.

2. Về trách nhiệm hình sự:

2.1- Áp dụng điểm a khoản 3, Điều 341; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17, Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Trần Quang H 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Làm giả giấy tờ, tài liệu của cơ quan, tổ chức”; thời hạn tù tính từ ngày đi thi hành án.

Về biện pháp tư pháp: áp dụng điểm a khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự, buộc bị cáo Trần Quang H phải nộp ngân sách Nhà nước số tiền thu lợi bất chính là 29.400.000 đồng.

2.2- Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 341; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17, Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015;

Xử phạt bị cáo Võ Ngọc H1 04 (Bốn) năm tù về tội “Làm giả giấy tờ, tài liệu của cơ quan tổ chức”, được trừ thời hạn tạm giam từ ngày 13-7-2019 đến ngày 10-12-2019; thời hạn tù tính từ ngày đi thi hành án.

Về biện pháp tư pháp: áp dụng điểm a khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự, buộc bị cáo Võ Ngọc H1 phải nộp ngân sách Nhà nước số tiền thu lợi bất chính là 5.800.000 đồng.

2.3- Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 341; khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17, Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Đỗ Đăng K 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “m giả giấy tờ, tài liệu của cơ quan tổ chức”; thời hạn tù tính từ ngày đi thi hành án.

Về biện pháp tư pháp: áp dụng điểm a khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự, buộc bị cáo Đỗ Đăng K phải nộp ngân sách Nhà nước số tiền thu lợi bất chính là 43.000.000 đồng.

2.4- Căn cứ điểm b, c khoản 2 Điều 341, điểm a khoản 1 Điều 46, điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, khoản 2 Điều 54; Điều 17, Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015;

Xử phạt bị cáo Lê Thanh H2 01 (Một) năm tù về tội “Làm giả giấy tờ, tài liệu của cơ quan tổ chức”; thời hạn tù tính từ ngày đi thi hành án.

Về biện pháp tư pháp: áp dụng điểm a khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự, buộc bị cáo Lê Thanh H2 phải nộp ngân sách Nhà nước số tiền thu lợi bất chính là 5.000.000 đồng.

3. Các quyết định khác còn lại của Bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hiệu kháng cáo, kháng nghị.

4. Về án phí hình sự phúc thẩm các bị cáo Trần Quang H, Đỗ Đăng K, Võ Ngọc H1, Lê Thanh H2 phải chịu mỗi bị cáo là 200.000 đồng.

Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực từ ngày tuyên án (24-03-2022).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

764
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội làm giả giấy tờ, tài liệu của cơ quan, tổ chức số 104/2022/HS-PT

Số hiệu:104/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:24/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về