Bản án về tội làm giả con dấu và sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức số 55/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 55/2022/HS-ST NGÀY 15/09/2022 VỀ TỘI LÀM GIẢ CON DẤU VÀ SỬ DỤNG CON DẤU, TÀI LIỆU GIẢ CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC

Ngày 15 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 50/2022/TLST-HS ngày 17 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 596/2022/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 8 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Lê Thị Thu H; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 15 tháng 02 năm 1972 Tại tỉnh Quảng Bình; Nơi cư trú: đường L, Phường Đ, TP Đ, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: Phó giám đốc truyền hình S chi nhánh tại tỉnh Q; trình độ học vấn: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Thanh T và bà: Nguyễn Thị L; có chồng: Lê Viết N; Có 02 đứa con, lớn sinh năm 1995, nhỏ sinh năm 2005; Anh chị em ruột: Có 05 người, H là con đầu trong gia đình; Đảng viên bị đình chỉ sinh hoạt đảng; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 05/01/2022 đến ngày 11/01/2022, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình hủy bỏ Quyết định tạm giữ và áp dụng biện pháp ngăn chặn Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú, bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

2. Bùi Văn Th; tên gọi khác: Không; sinh ngày 02 tháng 01 năm 1986; Tại tỉnh Quảng Bình; Nơi cư trú: Tổ dân phố C, Phường B, TP Đ, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 09/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Bùi Trung T và bà: Trần Thị H; có vợ: Phạm Thị Thanh Th; Có 02 đứa con, lớn sinh năm 2013, nhỏ sinh năm 2016; anh chị em ruột: Có 04 người, Th là con thứ 4 trong gia đình; tiền sự: Không; tiền án: 01 tiền án, Ngày 08/8/2018, bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình xử phạt 36 tháng tù về tội "Tổ chức đánh bạc" tại Bản án số 11/2018/HSST, bị cáo hiện đang chấp hành án phạt tù tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Bình từ ngày 29/4/2022 đến nay, có mặt tại phiên tòa theo lệnh trích xuất của Tòa án.

3. Đặng Tuấn M; tên gọi khác: Không; sinh ngày 17 tháng 9 năm 1998 tại tỉnh Quảng Bình; Nơi đăng ký NKTT: Thôn Y, xã H, huyện M, tỉnh Quảng Bình; Chổ ở hiện nay: Thôn Y, xã H, huyện M, tỉnh Quảng Bình; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Đặng Minh Đ và bà: Đinh Thị Hải Y; chưa có vợ con; Anh chị em ruột: M là con duy nhất trong gia đình; tiền sự: Không; tiền án: 02 Tiền án, Ngày 18/4/2017 bị Tòa án nhân dân huyện Minh Hóa xử phạt 24 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” tại bản án số 08/2017/HSST thi hành án tại Trại giam Đồng Sơn đến ngày 28/7/2018 chấp hành xong hình phạt; Ngày 28/4/2021 bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình xử phạt 6 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng” tại bản án số 24/2021/HS- PT, đã chấp hành xong hình phạt ngày 04/7/2022; Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 05/01/2022 đến ngày 11/01/2022, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình hủy bỏ Quyết định tạm giữ và áp dụng biện pháp ngăn chặn Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú, bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

4. Nguyễn Thanh X; tên gọi khác: Út; sinh ngày 11 tháng 02 năm 1986 tại tỉnh Thừa Thiên Huế; Nơi cư trú: Tổ dân phố M, Phường Đ, TP Đ, tỉnh Quảng Bình; Nghề nghiệp: Kỹ Thuật viên tin học; trình độ học vấn: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Th và bà: Phạm Thị S; có vợ Trần Thị Khánh D; có 02 đứa con; tiền sự: Không; tiền án: 01 tiền án, Ngày 08/8/2018 bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình xử phạt 16 tháng tù về tội "Tổ chức đánh bạc" tại Bản án số 11/2018/HSST, bị cáo hiện đang chấp hành án tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Bình từ ngày 15/3/2022 đến nay, có mặt tại phiên tòa theo lệnh trích xuất của Tòa án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Đỗ L, sinh năm 1864; địa chỉ: Tổ dân phố B, thị trấn H, huyện B, tỉnh Quảng Bình, vắng mặt.

- Đặng Ngọc Q; địa chỉ: đường T, phường N, TP Đ, vắng mặt.

- Lê Ngọc V; địa chỉ: Tổ dân phố 14, phường Nam Lý, TP Đồng Hới, vắng mặt.

- Nguyễn Thị Thương, địa chỉ: Tổ dân phố H, phường N, TP Đ, vắng mặt.

- Nguyễn Thị Thanh Th; địa chỉ: Tổ dân phố Th, phường Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình, vắng mặt.

- Trịnh Thị Diệu H; địa chỉ: xã Ph, huyện Ph, tỉnh Thừa Thiên Huế, vắng mặt.

- Đặng Đức L; địa chỉ: xã Ph, huyện Ph, Thừa Thiên Huế, vắng mặt.

- Hồ Hoàng Yến Nh; địa chỉ: khu vực B, phường A, thành phố Huế, vắng mặt.

Người làm chứng: Nguyễn Phi Đ; địa chỉ: đường Ph, phường N, TP Đ, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trên cơ sở kết quả điều tra, các tài liệu có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được xác định được như sau:

* Hành vi của Lê Thị Thu H:

Khoảng đầu tháng 6/2021, Đặng Tuấn M nhờ Bùi Văn Th, làm 01 bệnh án mắc bệnh suy thận giả thì Th đồng ý. Sau đó, Th liên hệ với Lê Thị Thu H là người thường tham gia các hoạt động thiện nguyện trên địa bàn tỉnh Quảng Bình và có mối quan hệ quen biết các bệnh nhân mắc bệnh suy thận, phải chạy thận thường xuyên tại Bệnh viện H. Lợi dụng mối quan hệ quen biết thông qua hoạt động thiện nguyện, Lê Thị Thu H gặp Đặng Ngọc Q trú tại xã Ch, huyện T (là bệnh nhân suy thận mạn, tạm trú tại đường T, phường N) nói Q sao y 01 bệnh án của Q để làm từ thiện nên Q đồng ý. Sau đó, Q đến Bệnh viện H sao y 01 bệnh án suy thận của Q và cung cấp cho H 01 bệnh án mang nhân thân lý lịch của Q bị suy thận mạn và chạy thận nhân tạo điều trị tại Bệnh viện H. Quá trình giao nhận, H trực tiếp đưa cho Q số tiền 1.000.000 đồng nói là tiền từ thiện. Sau đó, H đưa bệnh án này về nhà sử dụng dao lam cạo nhẹ cho đến khi mờ hết thông tin nhân thân của Đặng Ngọc Q gồm tên tuổi, địa chỉ, quê quán và ngày tháng năm sinh, ngày tháng cấp bệnh án và các thông tin khác rồi sử dụng bút chì, bút bi quan sát nét chữ có trong bệnh án rồi viết đè lên phần đã cạo thành thông tin nhân thân của Đặng Tuấn M theo thông tin do Bùi Văn Th cung cấp cho H.

Khoảng một tuần sau, Bùi Văn Th đến nhà H lấy Bệnh án ngoại trú, mã YT:

38442 giả rồi đến khu vực tiểu khu 3, thị trấn H, huyện B và đưa cho M, M sử dụng bệnh án này kèm theo đơn xin hoãn thi hành án phạt tù thì được Tòa án nhân dân huyện Minh Hóa ra Quyết định hoãn thi hành án đến ngày 06/10/2021.

Đến tháng 10/2021, Đặng Tuấn M tiếp tục nhờ Bùi Văn Th làm 01 bệnh án suy thận giả nên Th nhờ Lê Thị Thu H thì H đồng ý. Với cách thức tương tự, H được Đặng Ngọc Q cung cấp 01 bệnh án của Q điều trị bệnh suy thận mạn tại Bệnh viện H và đưa cho Q số tiền 1.000.000 đồng nói tiền làm từ thiện và H đưa bệnh án về nhà cạo xóa, sửa chữa thành thông tin nhân thân của Đặng Tuấn M. Vài ngày sau, Th đến nhà H lấy Bệnh án ngoại trú, số ngoại trú: 63391 giả đưa về nhà. M đi xe taxi của một người lái xe tên “Sệu” đến quán cafe cạnh nhà Th lấy và có để lại vài quả sầu riêng để cảm ơn. Sau đó, M có đơn xin hoãn thi hành án, kèm theo bệnh án này gửi Tòa án nhân dân huyện Minh Hóa nhưng không được Tòa án nhân dân huyện Minh Hóa chấp nhận với lý do bệnh án có ghi bệnh đã ổn định nên phải thi hành án. Vì vậy, M tiếp tục nhờ Th và Th nhờ H thì H đồng ý. Với cách thức tương tự, H nhận bệnh án từ Q và cho Q số tiền 1.000.000 đồng nói là tiền từ thiện và H đưa bệnh án này về nhà cạo xóa, sửa chữa viết thành thông tin bệnh án của M. Vài ngày sau, Th đến nhà H lấy bệnh án ngoại trú, mã YT: 38442 và đưa cho H số tiền 10.000.000 đồng. Ngày 15/10/2021, Th liên lạc với M nói đã có bệnh án nên M nhờ người lái xe taxi tên “Sệu” đến nhà Th lấy bệnh án và đưa lại cho M. Sau đó, M có đơn xin hoãn thi hành án phạt tù kèm theo bệnh án này thì được Tòa án nhân dân huyện Minh Hóa ra Quyết định hoãn chấp hành án phạt tù đến ngày 18/4/2022. Bên cạnh đó, khoảng tháng 11/2021, Nguyễn Thanh X liên lạc và nhờ Lê Thị Thu H làm một bệnh án mang tên X thì H đồng ý. Sau đó, H gặp Đặng Ngọc Q và nói sao y 01 bệnh án của Q để làm từ thiện thì Q đồng ý cung cấp cho H 01 bệnh án mang nhân thân lai lịch của Q bị suy thận mạn và chạy thận nhân tạo điều trị tại Bệnh viện H nên H đưa cho Q số tiền 1.000.000 đồng nói là tiền làm từ thiện. Sau đó, H đưa bệnh án này về nhà sử dụng dao lam cạo nhẹ cho đến khi mờ hết thông tin nhân thân của Q gồm tên tuổi, địa chỉ, quê quán và ngày tháng năm sinh, ngày tháng cấp bệnh án và các thông tin khác rồi H sử dụng bút chì, bút bi quan sát nét chữ có trong bệnh án và viết đè lên phần đã cạo thành thông tin nhân thân của Nguyễn Thanh X theo bản phô tô CCCD mà X cung cấp cho H. Sau khi hoàn thiện, X đến nhà H lấy bệnh án đã sửa chữa trên và đưa cho H 15.000.000 đồng. Sau đó, Nguyễn Thanh X có đơn xin hoãn thi hành án phạt tù kèm theo bệnh án này nên ngày 06/12/2021, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình có Quyết định hoãn thi hành án phạt tù trong thời hạn 12 tháng đối với Nguyễn Thanh X.

*Hành vi của Bùi Văn Th: Ngày 27/11/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình ra Quyết định thi hành án phạt tù số 37/2018/QĐ-CA đối với Bùi Văn Th trong thời hạn 36 tháng (được trừ đi thời hạn tạm giam) về tội “Tổ chức đánh bạc” theo Bản án hình sự sơ thẩm số 11/2018/HS-ST ngày 08/8/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình.Ngày 29/11/2018, Bùi Văn Th có đơn xin hoãn thi hành án phạt với lý do Bùi Văn Th là lao động chính trong gia đình nên ngày 03/12/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình có Quyết định hoãn thi hành án phạt tù trong thời hạn 12 tháng đối với Bùi Văn Th.

Ngày 20/11/2019, Bùi Văn Th tiếp tục có đơn xin hoãn thi hành án phạt tù kèm theo một bệnh án ngoại trú, số ngoại trú: 1055, điều trị suy thận giả do Bùi Văn Th mua của một người đàn ông không quen biết trên mạng xã hội Facebook với số tiền 2.000.000 đồng nên ngày 29/11/2019, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình có Quyết định hoãn thi hành án phạt tù trong thời hạn 12 tháng đối với Bùi Văn Th.

Ngày 19/11/2020, Bùi Văn Th tiếp tục có đơn xin hoãn thi hành án phạt tù kèm theo một Bệnh án ngoại trú, số lưu trữ: 9999, điều trị suy thận giả do Bùi Văn Th mua của một người đàn ông không quen biết trên mạng xã hội Facebook với số tiền 2.000.000 đồng nên ngày 25/11/2020, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình có Quyết định hoãn thi hành án phạt tù trong thời hạn 12 tháng đối với Bùi Văn Th.

Khoảng tháng 6/2021, Bùi Văn Th nảy sinh ý định làm bệnh án điều trị suy thận mang tên mình nhưng dùng thủ đoạn đưa người khác vào chạy thận nhân tạo vì bản thân Th không mắc bệnh suy thận. Vì biết Lê Thị Thu H có làm từ thiện và hay tiếp xúc với bệnh nhân suy thận nên Th xin H số điện thoại của một người bị bệnh thận để Th làm từ thiện thì H đồng ý và cho Th số điện thoại của Đặng Ngọc Q. Sau đó, Bùi Văn Th liên lạc với Q và nói có suất chạy thận chất lượng cao (chạy thận online), muốn làm từ thiện cho Q thì Q đồng ý. Bùi Văn Th cùng Q đến Bệnh viện Tr cơ sở 2. Tại đây, Bùi Văn Th vào làm thủ tục nhập viện điều trị suy thận tại Khoa nội thận, thận nhân tạo với thông tin là Bùi Văn Th, sinh ngày 02/01/1986, trú tại TDP C, phường B, TP. Đ, tỉnh Quảng Bình và đưa Q đến khu vực chạy thận, khi nghe nhân viên y tế gọi tên Bùi Văn Th thì Th hướng dẫn Q vào chạy thận và nói đó là suất làm từ thiện. Q không biết Th làm giả bệnh án, nghĩ Th đang làm từ thiện với mình nên đã vào chạy thận. Sau đó, Bùi Văn Th trả tiền chạy thận cho Bệnh viện Tr cơ sở 2 và cho Q số tiền 10.000.000 đồng. Khoảng tháng 7/2021, Bùi Văn Th được Bệnh viện Tr cơ sở 2 cấp Tóm tắt hồ sơ bệnh án và Giấy ra viện số 210014333 và sử dụng các tài liệu này xin hoãn thi hành án phạt tù nên ngày 06/12/2021, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình có Quyết định hoãn thi hành án phạt tù trong thời hạn 12 tháng đối với Bùi Văn Th.

*Hành vi của Đặng Tuấn M:

Ngày 20/5/2021, Tòa án nhân dân huyện Minh Hóa ra Quyết định thi hành án phạt tù số 08/2021/QĐ-CA đối với Đặng Tuấn M trong thời hạn 06 tháng (được trừ đi thời hạn tạm giam) về tội “Gây rối trật tự công cộng” theo bản án hình sự phúc thẩm số 24/2021/HS-PT ngày 28/4/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình.

Ngày 24/5/2021, Đặng Tuấn M có đơn xin hoãn thi hành án phạt tù với nội dung là lao động chính trong gia đình nhưng không được Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình chấp nhận. Sau đó, Minh có nói với Nguyễn Thị Thanh Th, sinh năm 1992, trú tại tổ dân phố Th, phường Q, thị xã B về việc muốn hoãn thi hành án thì Th nói sẽ hỏi giúp. Th liên hệ với Đỗ L (là người bà con), sinh năm 1964, trú tại tiểu khu B, thị trấn H, huyện B thì được L đồng ý nhờ hỏi giúp về thủ tục xin hoãn. L liên hệ với Bùi Văn Th hỏi về thủ tục hoãn thi hành án phạt tù và hẹn Th đến quán cafe thuộc phường Đ để nói chuyện. Tại đây, Bùi Văn Th gặp Đỗ L, Nguyễn Thị Thanh Th, Đặng Tuấn M thì L nói Th đang hoãn thi hành án phạt tù, M có thắc mắc gì thì cứ hỏi Th về thủ tục. Lúc này, M nói nhờ Th làm bệnh án thì Th nói sẽ hỏi giúp. Vì biết Lê Thị Thu H có làm từ thiện và hay tiếp xúc với các bệnh nhân, nhân viên Bệnh viện nên Th liên hệ với Lê Thị Thu H nhờ H làm bệnh án cho M thì H đồng ý. Sau đó, Th nói M cung cấp thông tin nhân thân cho Th và Th cung cấp thông tin lại cho H để làm bệnh án. Khoảng một tuần sau, Bùi Văn Th nhờ Nguyễn Phi Đ, sinh năm 1987, trú tại phường N, TP. Đ chở đến nhà của H và Th vào nhà H lấy bệnh án ngoại trú, mã YT: 38442 rồi đến khu vực trước nhà Đỗ L ở tiểu khu B, thị trấn H. Tại đây, Th nói Nguyễn Phi Đ đưa bệnh án cho M và M sử dụng bệnh án này kèm theo có đơn xin hoãn thi hành án phạt tù thì được Tòa án nhân dân huyện Minh Hóa ra Quyết định hoãn thi hành án đến ngày 06/10/2021.

Đến tháng 10/2021, Đặng Tuấn M tiếp tục nhờ Th làm 01 bệnh án nên Th nhờ H thì H đồng ý. Vài ngày sau, Th đến nhà H và H giao Bệnh án ngoại trú, số ngoại trú:

63391 cho Th nên Th hẹn M đến lấy. M đi xe taxi của một người lái xe tên “Sệu” đến quán cafe cạnh nhà Th thuộc tổ dân phố C, phường B, thành phố Đi. Tại đây, Th để bệnh án này trên bàn và M đến lấy, có để lại vài quả sầu riêng để cảm ơn. Sau đó, M có đơn xin hoãn thi hành án, kèm theo bệnh án này gửi Tòa án nhân dân huyện Minh Hóa nhưng không được Tòa án nhân dân huyện Minh Hóa chấp nhận với lý do bệnh án có ghi bệnh đã ổn định nên phải thi hành án. Sau đó, M tiếp tục nhờ Th làm thêm 01 bệnh án và Th tiếp tục nhờ H thì H đồng ý. Vài ngày sau, Th đến nhà H lấy bệnh án ngoại trú, mã YT: 38442 và đưa cho H số tiền 10.000.000 đồng. Ngày 15/10/2021, Th liên lạc với M nói đã có bệnh án nên M nhờ người lái xe taxi tên Sệu đến nhà Th lấy bệnh án và đưa lại cho M. Sau đó, M có đơn xin hoãn thi hành án phạt tù kèm theo bệnh án này thì được Tòa án nhân dân huyện Minh Hóa ra Quyết định hoãn chấp hành án phạt tù đến ngày 18/4/2022.

*Hành vi của Nguyễn Thanh X:

Ngày 27/11/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình ra Quyết định thi hành án phạt tù số 37/2018/QĐ-CA đối với Nguyễn Thanh X trong thời hạn 16 tháng (được trừ đi thời hạn tạm giam) về tội “Tổ chức đánh bạc” theo bản án hình sự sơ thẩm số 11/2018/HS-ST ngày 08/8/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình.

Ngày 29/11/2018, Nguyễn Thanh X có đơn xin hoãn thi hành án phạt với lý do Nguyễn Thanh X là lao động chính trong gia đình nên ngày 03/12/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình có Quyết định hoãn thi hành án phạt tù trong thời hạn 12 tháng đối với Nguyễn Thanh X.

Ngày 20/11/2019, Nguyễn Thanh X tiếp tục có đơn xin hoãn thi hành án phạt tù kèm theo một bệnh án ngoại trú, số ngoại trú: 4642, điều trị suy thận do Nguyễn Thanh X mua của một người đàn ông không quen biết trên mạng xã hội Facebook với số tiền 2.000.000 đồng nên ngày 29/11/2019, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình có Quyết định hoãn thi hành án phạt tù trong thời hạn 12 tháng đối với Nguyễn Thanh X.

Ngày 19/11/2020, Nguyễn Thanh X tiếp tục có đơn xin hoãn thi hành án phạt tù kèm theo một bệnh án ngoại trú, số ngoại trú: 5633, điều trị suy thận do Nguyễn Thanh X mua của một người đàn ông không quen biết trên mạng xã hội Facebook với số tiền 2.000.000 đồng nên ngày 25/11/2020, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình có Quyết định hoãn thi hành án phạt tù trong thời hạn 12 tháng đối với Nguyễn Thanh X.

Đến tháng 10/2021, Nguyễn Thanh X liên hệ với Lê Thị Thu H đặt vấn đề làm bệnh án để hoãn thi hành án phạt tù thì H đồng ý. Sau đó, X đưa cho H một bản phô tô CCCD để cung cấp thông tin cá nhân. Đến khoảng cuối tháng 11/2021, H liên lạc nói đã làm xong bệnh án nên X đến nhà của H lấy. Tại đây, X nhận bệnh án ngoại trú, mã YT: 89052 mang tên Nguyễn Thanh X mắc bệnh suy thận mạn và X trực tiếp đưa cho H số tiền 15.000.000 đồng. Sau đó, Nguyễn Thanh X có đơn xin hoãn thi hành án phạt tù kèm theo bệnh án này nên ngày 06/12/2021, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình có Quyết định hoãn thi hành án phạt tù trong thời hạn 12 tháng đối với Nguyễn Thanh X.

Ngày 21/3/2022, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình có Kết luận giám định số 361/KL-KTHS xác định:

- Bệnh án ngoại trú, mã YT: 38442 (đề ngày 01/04/2021) được sửa phần thông tin tên, tuổi, địa chỉ của Đặng Ngọc Q thành thông tin tên, tuổi, địa chỉ của Đặng Tuấn M. Hình dấu tròn là do con dấu của Bệnh viện H đóng ra. Chữ ký do BsCKII Trần Linh Gi ký ra.

- Bệnh án ngoại trú, mã YT: 63391 được sửa phần thông tin tên, tuổi, địa chỉ của Đặng Ngọc Q thành thông tin tên, tuổi, địa chỉ của Đặng Tuấn M. Hình dấu tròn là do con dấu của Bệnh viện H đóng ra. Chữ ký do BsCKII Trần Linh Gi ký ra.

- Bệnh án ngoại trú, mã YT: 38442 (đề ngày 01/09/2021) được sửa phần thông tin ngày cấp, tên, tuổi, địa chỉ của Đặng Ngọc Q thành thông tin tên, tuổi, địa chỉ của Đặng Tuấn M. Hình dấu tròn là do con dấu của Bệnh viện H đóng ra. Không đủ cơ sở kết luận chữ ký đứng tên BsCKII Trần Linh Gi với mẫu so sánh có phải do cùng một người ký ra hay không.

- Bệnh án ngoại trú, mã YT: 89052 được sửa phần thông tin tên, tuổi, địa chỉ của Đặng Ngọc Q thành thông tin tên, tuổi, địa chỉ của Nguyễn Thanh X. Hình dấu tròn là do con dấu của Bệnh viện H đóng ra. Chữ ký do BsCKII Trần Linh Gi ký ra.

- Bệnh án ngoại trú, số ngoại trú 4642: Được sửa phần thông tin ngày cấp, tên, tuổi, địa chỉ của Nguyễn Thị Th thành thông tin tên, tuổi, địa chỉ của Nguyễn Thanh X. Hình dấu tròn không phải do con dấu của Bệnh viện H đóng ra, hình dấu được tạo ra bằng phương pháp in phun màu. Chữ ký không phải do BsCKII Trần Tiến H ký ra.

- Bệnh án ngoại trú, số lưu trữ 629/20 có sửa phần thông tin ngày cấp, tên, tuổi, địa chỉ của Lê Ngọc V thành thông tin tên, tuổi, địa chỉ của Nguyễn Thanh X. Hình dấu tròn là do con dấu của Bệnh viện H đóng ra. Chữ ký do BsCKII Trần Linh Gi ký ra.

- Bệnh án ngoại trú, số ngoại trú 1055: Được sửa phần thông tin ngày cấp, tên, tuổi, địa chỉ của Lê Ngọc V thành thông tin tên, tuổi, địa chỉ của Bùi Văn Th. Hình dấu tròn không phải do con dấu của Bệnh viện H đóng ra, hình dấu được tạo ra bằng phương pháp in phun màu. Chữ ký không phải do BsCKII Trần Tiến H ký ra.

- Bệnh án ngoại trú, số lưu trữ 9999: Có sửa phần thông tin ngày cấp, tên, tuổi, địa chỉ của Lê Ngọc V thành thông tin tên, tuổi, địa chỉ của Bùi Văn Th. Hình dấu tròn là do con dấu của Bệnh viện H đóng ra. Chữ ký do BsCKII Nguyễn Văn Ph ký ra.

Ngày 10/5/2022, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình có Kết luận giám định số 539/KL-KTHS xác định:

- Giấy ra viện lập ngày 16 tháng 7 năm 2021, MS : 01/BV-01 có hình dấu tròn là do con dấu của Bệnh viện Đa khoa Tr cơ sở 2 đóng ra. Chữ ký do TS. BS. Nguyễn Đức H ký ra.

- Tóm tắt hồ sơ bệnh án, số vào viện : 210014333 lập ngày 20 tháng 7 năm 2021 có hình dấu tròn là do con dấu của Bệnh viện Đa khoa Tr cơ sở 2 đóng ra;

Ngày 21/3/2022, Trung tâm giám định Y khoa – Pháp y tỉnh Quảng Bình có Kết luận pháp y về bệnh tật số 88/TgT xác định: Hiện tại Bùi Văn Th không mắc bệnh suy thận mạn, không mắc bệnh viêm gan C.

* Cơ quan điều tra đã thu giữ:

- 02 (hai) lưỡi dao lam bằng kim loại màu trắng sáng, trên thân có in hình dòng chữ “ROSTFREI” - 01 (một) bút chì màu đen có chỉ dọc màu xanh, trên thân có in hình dòng chữ STABILO Othello 282.

- 01 (một) bút bi dạng bấm thân màu đen trên thân in hình chữ 0.5 Calina.

- 02 (hai) ảnh 3x4 in hình mặt người chưa xác định danh tính.

- 01 (một) điện thoại di động, nhãn hiệu iPhone 11 PROMAX, màu vàng đồng, có số máy: MWG42LL/A, số IMEI: 353900104755404, máy đã qua sử dụng.

- Tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam: 2.000.000 đồng (hai triệu đồng).

- 01 (một) Bệnh án ngoại trú, Mã YT: 38442 có 02 tờ loại giấy A4, phía dưới bên phải đề ngày 01 tháng 04 năm 2021, có chữ ký, có phần hình dấu “BỘ Y TẾ BỆNH VIỆN H”, có phần hình dấu “TRÍCH SAO ngày 02 tháng 6 năm 2021”;

- 01 (một) Bệnh án ngoại trú, Mã YT: 38442 có 02 tờ loại giấy A4, phía dưới bên phải đề ngày 01 tháng 09 năm 2021, có chữ ký, có phần hình dấu “BỘ Y TẾ BỆNH VIỆN H”, có phần hình dấu “TRÍCH SAO ngày 02 tháng 10 năm 2021”;

- 01 (một) Bệnh án ngoại trú, Mã YT: 63391 có 02 tờ loại giấy A4, phía dưới bên phải đề ngày 1 tháng 6 năm 2021, có chữ ký, có phần hình dấu “BỘ Y TẾ BỆNH VIỆN H”, có phần hình dấu “TRÍCH SAO ngày 08 tháng 10 năm 2021”;

- 01 (một) Bệnh án ngoại trú, Mã YT: 89052 có 02 tờ loại giấy A4, phía dưới bên phải đề ngày 3 tháng 8 năm 2021, có chữ ký, có phần hình dấu “BỘ Y TẾ BỆNH VIỆN H”, có phần hình dấu “TRÍCH SAO ngày 22 tháng 10 năm 2021”;

- 01 (một) Bệnh án ngoại trú, Số ngoại trú: 4642, Số lưu trữ: TNT 1230/19, có 02 tờ loại giấy A4, phía dưới bên phải đề ngày 12 tháng 11 năm 2019, có chữ ký, có phần hình dấu “BỘ Y TẾ BỆNH VIỆN H”, có phần hình dấu “TRÍCH SAO ngày 15 tháng 11 năm 2019”;

- 01 (một) Bệnh án ngoại trú, số ngoại trú: 5633, số lưu trữ: 629/20, có 02 tờ loại giấy A4, phía dưới bên phải đề ngày 11 tháng 10 năm 2020, có chữ ký, có phần hình dấu “BỘ Y TẾ BỆNH VIỆN H”, có phần hình dấu “TRÍCH SAO ngày 29 tháng 10 năm 2020”;

- 01 (một) Bệnh án ngoại trú, Số ngoại trú: 1055, Số lưu trữ: 860/19, có 02 tờ loại giấy A4, phía dưới bên phải đề ngày 1 tháng 6 năm 2019, có chữ ký, có phần hình dấu “BỘ Y TẾ BỆNH VIỆN H”, có phần hình dấu “TRÍCH SAO ngày 30 tháng 7 năm 2019”;

- 01 (một) Bệnh án ngoại trú, Số lưu trữ: 9999, có 02 tờ loại giấy A4, phía dưới bên phải đề ngày 1 tháng 9 năm 2020, có chữ ký, có phần hình dấu “BỘ Y TẾ BỆNH VIỆN H”, có phần hình dấu “TRÍCH SAO ngày 03 tháng 11 năm 2020”;

- 01 (một) Tóm tắt hồ sơ bệnh án, số vào viện: 210014333, Họ và tên: Bùi Văn Thái, khổ giấy A4, phía dưới bên phải đề ngày 20 tháng 7 năm 2021, có chữ ký, có phần hình dấu “BỘ Y TẾ BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG HUẾ BỆNH VIỆN ĐA KHOA TR CƠ SỞ 2”.

- 01 (một) Giấy ra viện, số lưu trữ: 210014333, Họ tên người bệnh: Bùi Văn Thái, phía dưới bên phải đề ngày 16 tháng 7 năm 2021, có chữ ký, có phần hình dấu “BỘ Y TẾ BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG HUẾ BỆNH VIỆN ĐA KHOA TR CƠ SỞ 2”.

Bản Cáo trạng số 86/CTr-VKS-P2 ngày 11 tháng 8 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình đã truy tố: Lê Thị Thu H về tội "Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức" theo điểm c, đ khoản 2 Điều 341 Bộ luật Hình sự; Bùi Văn Th về tội " Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức" theo điểm b khoản 2 Điều 341 Bộ luật Hình sự; Nguyễn Thanh X về tội "Sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức" theo điểm b khoản 2 Điều 341 Bộ luật Hình sự; Đặng Tuấn M về tội "Sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức" theo điểm b, e khoản 2 Điều 341 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình phát biểu lời luận tội, giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên các bị cáo: Lê Thị Thu H phạm tội "Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức"; Bùi Văn Th phạm tội " Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức" theo điểm b khoản 2 Điều 341 Bộ luật Hình sự; Nguyễn Thanh X phạm tội "Sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức" theo điểm b khoản 2 Điều 341 Bộ luật Hình sự; Đặng Tuấn M phạm tội "Sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức" theo điểm b, e khoản 2 Điều 341 Bộ luật Hình sự.

Áp dụng điểm c, đ khoản 2 Điều 341, điểm s, t, v khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 54, Điều 36 Bộ luật Hình sự, đề nghị phạt Lê Thị Thu H từ 18 - 24 tháng cải tạo không giam giữ.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 341, điểm s, t khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 54, Điều 38 Bộ luật Hình sự, đề nghị phạt Bùi Văn Th từ 06 - 09 tháng tù và tổng hợp hình phạt với bản án đang chấp hành.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 341, điểm s, r, t khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 54, Điều 38 Bộ luật Hình sự, đề nghị phạt Nguyễn Thanh X từ 06 - 09 tháng tù và tổng hợp hình phạt với bản án đang chấp hành.

Áp dụng điểm c, đ khoản 2 Điều 341, điểm s, t khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 54, Điều 38 Bộ luật Hình sự, đề nghị phạt Đặng Tuấn M từ 06 - 12 tháng tù.

Xử lý vật chứng: trả lại điện thoại di động cho bị cáo H; tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 2.000.000 đồng; tịch thu tiêu hủy 02 lưỡi dao lam, 01 bút chì màu đen, 01 bút bi dạng bấm màu đen.

Tại phiên tòa các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như phát biểu luận tội của đại diện Viện kiểm sát, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét quyết định hình phạt nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định của cơ quan Điều tra Công an tỉnh Quảng Bình, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đầy đủ về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Về sự vắng mặt của người liên quan người làm chứng, Hội đồng xét xử thấy không ảnh hưởng đến việc xét xử, nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ, phù hợp cả về mặt thời gian và địa điểm phạm tội, do đó có đủ cơ sở xác định:

* Từ tháng 6/2021 đến tháng 11/2021, Lê Thị Thu H có 03 lần làm giả tài liệu từ bệnh án suy thận của Đặng Ngọc Q thành thông tin nhân thân bệnh án suy thận của Đặng Tuấn M; 01 lần làm giả tài liệu từ bệnh án suy thận của Đặng Ngọc Q thành thông tin nhân thân bệnh án suy thận của Nguyễn Thanh X. Số tiền thu lợi bất chính từ việc làm giả 04 bệnh án trên là 25.000.000 đồng. Hành vi của Lê Thị Thu H đã cấu thành tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” quy định tại điểm c, đ khoản 2 Điều 341 Bộ luật Hình sự.

* Từ tháng 11/2019 đến tháng 11/2021, Bùi Văn Th có 06 lần sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức; 01 lần làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức và sử dụng tài liệu giả (bệnh án giả) đó để làm thủ tục hoãn chấp hành án phạt tù, trong đó có 02 lần mua bệnh án giả của một người đàn ông không quen biết thông qua mạng xã hội để được Tòa án cho hoãn thi hành án phạt tù, 01 lần dùng thủ đoạn “tráo người” để làm bệnh án suy thận tại Bệnh viện Tr cơ sở 2 và sử dụng các tài liệu này để được Tòa án cho hoãn chấp hành án phạt tù. Bên cạnh đó, Bùi Văn Th còn đồng phạm với Đặng Tuấn M trong vai trò giúp sức về việc Đặng Tuấn M 03 lần sử dụng tài liệu giả do Bùi Văn Th đưa để làm thủ tục hoãn chấp hành án phạt tù tại Tòa án nhân dân huyện Minh Hóa. Hành vi của Bùi Văn Th là trái pháp luật, vi phạm pháp luật hình sự do đó hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức; Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 341 Bộ luật Hình sự.

* Từ tháng 4/2021 đến tháng 10/2021, Đặng Tuấn M thông qua các mối quan hệ, bị cáo có quen biết với Bùi Văn Th và được Th nhận lời giúp đỡ làm bệnh án giả để xin hoãn thi hành án phạt tù và bị cáo có 03 lần sử dụng tài liệu giả (bệnh án giả) gửi đến Tòa án nhân dân huyện Minh Hóa và được hoãn thi hành án phạt tù. Trong đó, có 02 lần được Tòa án nhân dân huyện Minh Hóa ra Quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù, 01 lần Tòa án nhân dân huyện Minh Hóa không đồng ý việc xin hoãn thi hành án, hành vi của bị cáo là trái pháp luật, vi phạm pháp luật hình sự. Ngoài ra bản thân bị cáo M đã 2 lần bị các Tòa án xét xử chưa được xóa án tích mà tiếp tục phạm tội, cụ thể: Ngày 18/4/2017, Tòa án nhân dân huyện Minh Hóa xử phạt 24 tháng tù giam về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, bản án số 08/2017/HSST, thi hành án tại Trại giam Đồng Sơn đến ngày 28/7/2018 chấp hành xong hình phạt về địa phương. Ngày 28/4/2021, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình xử phạt 6 tháng tù giam về tội “Gây rối trật tự công cộng” tại bản án số 24/2021/HS – PT và xác định bị cáo đã tái phạm, đến ngày 04/7/2022 mới chấp hành xong hình phạt. Hành vi đó của bị cáo đã cấu thành tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” thuộc tình tiết phạm tội 2 lần trở lên và tái phạm nguy hiểm, quy định tại điểm b, e khoản 2 Điều 341 Bộ luật Hình sự.

* Từ tháng 11/2019 đến tháng 11/2021, Nguyễn Thanh X có 03 lần hoãn chấp hành án phạt tù, trong đó có 02 lần mua tài liệu của một người đàn ông không quen biết thông qua mạng xã hội, 01 lần được Lê Thị Thu H làm giả tài liệu để sử dụng vào việc xin hoãn thi hành án phạt tù. Hành vi của Nguyễn Thanh X đã cấu thành tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 341 Bộ luật hình sự.

[3] Đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Các bị cáo là người có trình độ học vấn nhất định nên phải nhận thức được hành vi làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức và sử dụng con dấu, tài liệu giải của cơ quan, tổ chức là vi phạm pháp luật hình sự nhưng vẫn cố ý cùng nhau thực hiện nhằm thu lợi bất chính và phục vụ cho việc hoãn thi hành án hình phạt tù của các bị cáo, các bị cáo phạm tội từ 02 lần trở lên. Trong vụ án này bị cáo H là Đảng viên nhưng không chịu tu dưỡng, rèn luyện đạo đức mà cố ý thực hiện tội phạm đến cùng, do đó bị cáo là người chịu trách nhiệm với vai trò chính, cần phải có hình phạt nghiêm khắc nhằm giáo dục, răn đe các bị cáo và phòng ngừa tội phạm.

Tuy nhiên khi quyết định hình phạt cần xem xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo:

* Đối với bị cáo Lê Thị Thu H phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đó là: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cãi, tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm (Phòng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh Quảng Bình xác nhận và đề nghị), có bố là thương binh loại A hạng 2/4, được tặng Huân chương kháng chiến hạng nhất, nhì, ba; Huân chương chiến sỹ vẽ vang hạng nhì; Huân chương lao động hạng nhì;

Huân chương chiến sỹ giải phóng hạng nhì, hạng ba. Chồng là Lê Viết N được UBND tỉnh Quảng Bình tặng Bằng khen vì đã có thành tích xuất sắc trong công tác cứu trợ lũ lụt trên địa bàn tỉnh nhà. Bản thân Lê Thị Thu H đã có nhiều hoạt động thiện nguyện giúp đỡ các hộ nghèo, khó khăn trong đợt lũ lụt năm 2020 được nhiều địa phương xác nhận quy định tại điểm s, t khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng và xét thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà cần xem xét áp dụng Điều 36 Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo cải tạo không giam giữ là thể hiện chính sách khoan hồng của nhà nước ta. Do bị cáo bị tạm giữ 06 ngày (từ ngày 05/01/2022 đến ngày 11/01/2022) nên trừ vào thời gian cải tạo không giam giữ, quy đổi 06 ngày tạm giữ = 18 ngày cải tạo không giam giữ.

- Áp dụng biện pháp khấu trừ thu nhập 5% đối với bị cáo để sung công quỹ nhà nước trong thời gian bị cáo chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ.

* Đối với bị cáo Bùi Văn Th phạm tội thuộc trường hợp tái phạm là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự; có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đó là: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cãi; tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm (Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Quảng Bình xác nhận Bùi Văn Th tích cực hợp tác cung cấp nhiều thông tin về đối tượng Hoàng Xuân M, sinh năm 1998, trú tại phường Đ mua bán ma túy và cơ quan điều tra đã thu giữ với số lượng 2.272 viên hồng phiến, bị cáo có bố là được tặng kỷ niệm chương Cựu chiến binh Việt Nam; Mẹ là Trần Thị H có tham gia thanh niên xung phong. Bản thân bị cáo đã có nhiều đóng góp, giúp đỡ, ủng hộ người dân trong đợt lũ, lụt năm 2020; Hỗ trợ người dân có hoàn cảnh khó khăn và mắc bệnh hiểm nghèo được các địa phương xác nhận; Ngày 06/01/2022, Bùi Văn Th đến phòng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh Quảng Bình đầu thú về hành vi sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức là những tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, t khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên cần xem xét áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt nhưng trong khung hình phạt liền kề là phù hợp. Do bị cáo đang chấp hành án tại Bản án hình sự sơ thẩm số 11/2018/HSST ngày 08/8/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình, vì vậy cần áp dụng Điều 56 Bộ luật Hình sự để tổng hợp hình phạt nhiều bản án.

* Đối với bị cáo Đặng Tuấn M phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đó là: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cãi; tích cực hợp tác với cơ quan điều tra phát hiện tội phạm xảy ra tại khu vực Âu thuyền thuộc thôn 1, xã B, huyện B ngày 08/7/2022 qua đó đã làm rõ được đối tượng Nguyễn Cảnh H trộm cắp tài sản và Công an huyện Bố Trạch đã khởi tố vụ án (Công an huyện Bố Trạch xác nhận và đề nghị Tòa án xem xét, đánh giá trong quá trình giải quyết vụ án); có ông nội được tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng ba; Huy hiệu 40 năm tuổi đảng; Ông bà ngoại được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhì, ba; Bố là Đặng Minh Đ được tỉnh Khăm Muộn nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào tặng giấy khen vì đã có thành tích trong giảng dạy, UBND thành phố Đồng Hới tặng giấy khen giáo viên dạy giỏi; Bản thân bị cáo đã có những hoạt động thiện nguyện trong đợt lũ lụt năm 2020. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s, t khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên cần xem xét áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt nhưng trong khung hình phạt liền kề là phù hợp.

* Đối với bị cáo Nguyễn Thanh X phạm tội thuộc trường hợp tái phạm, đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự; có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đó là: Người phạm tội tự thú;

thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm (Công an thị trấn Nông Trường Việt Trung xác nhận Nguyễn Thanh X cung cấp thông tin đối tượng Lại Thế Nh tàng trữ trái phép chất ma túy. Sau đó Công an thị trấn Nông Trường Việt Trung kiểm tra, bắt giữ người phạm tội quả tang đối với Lại Thế Nh về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy); Bản thân bị cáo đã có nhiều hoạt động giúp đỡ, hỗ trợ các cá nhân và gia đình có hoàn cảnh khó khăn như bà mẹ Việt Nam anh hùng, nạn nhân chất độc da cam, được các địa phương xác nhận. Đây được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, r, t khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên cần xem xét áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt nhưng trong khung hình phạt liền kề là phù hợp. Do bị cáo đang chấp hành án tại Bản án hình sự sơ thẩm số 11/2018/HSST ngày 08/8/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình, vì vậy cần áp dụng Điều 56 Bộ luật Hình sự để tổng hợp hình phạt nhiều bản án.

Ngoài ra trong vụ án còn có các cá nhân, tổ chức liên quan đến vụ án: Trường hợp Đặng Ngọc Q là bệnh nhận suy thận mạn giai đoạn cuối, phải chạy thận liên tục, hiện không nghề nghiệp, sinh sống nhờ vào trợ cấp của gia đình và tiền từ thiện của các cá nhân, tổ chức hảo tâm. Khi được Bùi Văn Th nói cho Q chạy thận nhân tạo chất lượng cao là để làm từ thiện với Q nên Q đồng ý và không biết động cơ, mục đích của Th làm bệnh án để hoãn thi hành án phạt tù. Hành vi của Đặng Ngọc Q chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm.

Nguyễn Thị Thanh Th, Đỗ L là những người trung gian để Đặng Tuấn M gặp Bùi Văn Th. Tuy nhiên, Nguyễn Thị Thanh Th và Đỗ L không biết việc làm bệnh án giả và sử dụng bệnh án giả như thế nào, không biết động cơ, mục đích của Đặng Tuấn M và Bùi Văn Th nên hành vi của Nguyễn Thị Thanh Th và Đỗ L chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm.

Đối với người lái xe taxi tên “Sệu”, Đặng Tuấn M khai nhận hiện không biết “Sệu” làm gì, ở đâu và chỉ nhờ “Sệu” đi lấy giấy tờ, tài liệu, M không nói với “Sệu” đó là tài liệu giả và sử dụng để làm gì nên hành vi chưa cấu thành tội phạm.

Nguyễn Thanh X, Bùi Văn Th khai nhận mua bệnh án trên mạng xã hội của người đàn ông không quen biết và hiện tại không có cách nào để liên lạc được, Cơ quan điều tra sẽ tiếp tục xác minh và xem xét, xử lý khi có căn cứ.

Đặng Ngọc Q, Lê Ngọc V, Nguyễn Thị Th là những bệnh nhân mắc bệnh suy thận, sống tạm trú tại khu vực gần Bệnh viện H để chạy thận nhân tạo, hiện không có nghề nghiệp, sống chủ yếu nhờ vào trợ cấp của gia đình và tiền thiện nguyện của các cá nhân, tổ chức hảo tâm. Đặng Ngọc Q, Lê Ngọc V, Nguyễn Thị Th khai nhận sao y bệnh án tại Bệnh viện H đưa cho các cá nhân, tổ chức hảo tâm với mục đích nhận tiền từ thiện để duy trì cuộc sống, sinh hoạt, không biết những cá nhân, tổ chức sử dụng bệnh án vào việc làm bệnh án giả nên hành vi của Đặng Ngọc Q, Lê Ngọc V, Nguyễn Thị Th chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm.

Bệnh viện H cung cấp các bản sao y bệnh án ngoại trú điều trị suy thận theo yêu cầu của bệnh nhân. Bệnh viện Tr cơ sở 2 xác định thời điểm Bùi Văn Th làm hồ sơ bệnh án suy thận là thời điểm dịch Covid-19 bùng phát, tất cả nhân viên bệnh viện và bệnh nhân phải đeo khẩu trang khi tham gia khám và điều trị dẫn đến không thể kiểm tra được nhân thân của bệnh nhân khi đến điều trị.

[4] Về hình phạt bổ sung: Áp dụng khoản 4 Điều 341 Bộ luật Hình sự - Phạt tiền bị cáo Lê Thị Thu H 10.000.000 đồng.

- Miễn hình phạt bổ sung đối với các bị cáo Bùi Văn Th, Đặng Tuấn M và Nguyễn Thanh X.

[5] Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 46, 47 Bộ luật hình sự.

- Bị cáo Lê Thị Thu H có hành vi phạm tội thu lợi bất chính số tiền 25.000.000 đồng (Hai mươi lăm triệu đồng) nên buộc bị cáo H nộp lại để sung công quỹ nhà nước.

- Tiếp tục tạm giữ của bị cáo H số tiền 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng) hiện đang được tạm giữ tại tài khoản của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình để đảm bảo thi hành án;

- Cơ quan điều tra thu giữ: 02 (hai) lưỡi dao lam bằng kim loại màu trắng sáng, trên thân có in hình dòng chữ "ROSTFREI"; 01 (một) bút chì màu đen có chỉ dọc màu xanh, trên thân có in hình dòng chữ STABILO Othello 282; 01 (một) bút bi dạng bấm màu đen trên thân in hình chữ 0.5 Calina; 02 (hai) ảnh 3 x 4 in hình mặt người chưa xác định danh tính. Đây là những công cụ, phương tiện phạm tội không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy;

- Riêng 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 PROMAX màu vàng đồng, có số máy: MWG42LL/A, số IMEL: 353900104755404, máy đã qua sử dụng, cơ quan điều tra thu giữ của bị cáo H, bị cáo H dùng vào việc liên lạc với các bị cáo để thực hiện hành vi phạm tội nên cần tịch thu sung công quỹ nhà nước.

(Tất cả các vật chứng trên và số tiền 2.000.000 đồng hiện đang được tạm giữ tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 29/8/2022 và giấy ủy nhiệm chi ngày 23/8/2022)

[6] Về án phí: căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; Các bị cáo H, Th, X, M mỗi bị cáo phải chịu nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lê Thị Thu H phạm tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”; Bùi Văn Th phạm tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; Sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”; Đặng Tuấn M phạm tội “Sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”; Nguyễn Thanh X phạm tội “Sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”;

- Áp dụng điểm c, đ khoản 2 Điều 341, điểm s, t khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 54, Điều 36 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Lê Thị Thu H 36 (ba mươi sáu) tháng cải tạo không giam giữ, được trừ đi 6 ngày bị tạm giữ quy đổi thành 18 ngày cải tạo không giam giữ, còn lại 35 tháng 12 ngày buộc bị cáo Lê Thị Thu H phải chấp hành. Thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ tính từ ngày cơ quan được giao giám sát, giáo dục bị cáo nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Giao bị cáo Lê Thị Thu H cho Uỷ ban nhân dân phường Đ, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với UBND phường Đ trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Áp dụng biện pháp khấu trừ thu nhập đối với bị cáo Lê Thị Thu H 5% mức thu nhập hàng tháng trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ.

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 341, điểm s, t khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 54,Điều 38, Điều 56 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Bùi Văn Th 09 (chín) tháng tù và tổng hợp hình phạt 36 tháng tù tại Bản án hình sự sơ thẩm số 11/2018/HSST ngày 08/8/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình, hình phạt chung cả hai bản án buộc bị cáo phải chấp hành là 45 (bốn mươi lăm) tháng tù nhưng được trừ đi thời gian bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/6/2016 đến ngày 16/11/2016, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày chấp hành án 29/4/2022 - Áp dụng điểm b, e khoản 2 Điều 341, điểm s, t khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 54, Điều 38 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Đặng Tuấn M 09 (chín) tháng tù, được khấu trừ thời gian bị tạm giữ từ ngày 05/01/2022 đến ngày 11/01/2022, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày chấp hành án.

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 341, điểm s, r, t khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 54, Điều 38, Điều 56 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh X 09 (chín) tháng tù và tổng hợp hình phạt 16 tháng tù tại Bản án hình sự sơ thẩm số 11/2018/HSST ngày 08/8/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình, hình phạt chung cả hai bản án buộc bị cáo phải chấp hành là 25 (hai mươi lăm) tháng tù nhưng được trừ đi thời gian bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/6/2016 đến ngày 19/9/2016, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày chấp hành án 15/3/2022.

2. Về hình phạt bổ sung: Áp dụng khoản 4 Điều 341 Bộ luật Hình sự - Phạt tiền bị cáo Lê Thị Thu H 10.000.000 đồng (mười triệu đồng).

- Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo Bùi Văn Th, Nguyễn Thanh X, Đặng Tuấn M.

3. Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật hình sự - Tịch thu sung công quỹ nhà nước tại bị cáo Lê Thị Thu H số tiền 25.000.000 đồng (Hai mươi lăm triệu đồng) do thu lợi bất chính.

- Tịch thu sung công quỹ nhà nước của bị cáo Lê Thị Thu H 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 PROMAX màu vàng đồng, có số máy: MWG42LL/A, số IMEL:

353900104755404, máy đã qua sử dụng.

- Tịch thu tiêu hủy: 02 (hai) lưỡi dao lam bằng kim loại màu trắng sáng, trên thân có in hình dòng chữ "ROSTFREI"; 01 (một) bút chì màu đen có chỉ dọc màu xanh, trên thân có in hình dòng chữ STABILO Othello 282; 01 (một) bút bi dạng bấm màu đen trên thân in hình chữ 0.5 Calina; 02 (hai) ảnh 3 x 4 in hình mặt người chưa xác định danh tính;

- Tiếp tục tạm giữ của bị cáo Lê Thị Thu H số tiền 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng) để đảm bảo thi hành án (Tất cả các vật chứng trên và số tiền 2.000.000 đồng hiện đang được tạm giữ tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 29/8/2022 và giấy ủy nhiệm chi ngày 23/8/2022)

4. Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; Các bị cáo Lê Thị Thu H, Bùi Văn Th, Nguyễn Thanh X, Đặng Tuấn M mỗi bị cáo phải chịu nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (15/9/2022).(Đã giải thích việc chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ cho bị cáo bị phạt cải tạo không giam giữ)

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

338
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội làm giả con dấu và sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức số 55/2022/HS-ST

Số hiệu:55/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quảng Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:15/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về