Bản án về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức và lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 198/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 198/2022/HS-ST NGÀY 19/07/2022 VỀ TỘI LÀM GIẢ CON DẤU, TÀI LIỆU CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC VÀ LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 186/2022/TLST-HS ngày 10 tháng 6 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 211/2022/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Nhật H, sinh năm 1998 tại tỉnh Hậu Giang; nơi cư trú: Ấp 3, xã VĐ, huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 08/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Hùng E, sinh năm 1976 và bà Huỳnh Thị Mỹ L, sinh năm 1980; vợ tên Lâm Yến Ng, sinh năm 1993, bị cáo có 02 người con, lớn nhất sinh năm 2017 và nhỏ nhất sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt, bắt tạm giam ngày 05/7/2022, có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Ông Lê Thanh H, sinh năm 1993; thường trú: Ấp TL, xã ĐA 2, huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng; tạm trú: 7B/35 khu phố BĐ 2, phường Bình Hòa, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương (có đơn xin vắng mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Ông Nguyễn Tấn L, sinh năm 1998; thường trú: Ấp 2, xã HTK, huyện U Minh, tỉnh Cà Mau; chỗ ở: Ấp RB, xã AT, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương (vắng mặt).

- Ông Châu Văn T, sinh năm 1974; thường trú: Ấp 4, xã KH, huyện U Minh, tỉnh Cà Mau; tạm trú: 7B/35 khu phố BĐ 2, phường BH, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương (có đơn xin vắng mặt).

- Ông Châu Văn Đ, sinh năm 1977; thường trú: Ấp 3, xã NP, huyện U Minh, tỉnh Cà Mau (vắng mặt).

- Công ty Tài chính TNHH HD S; trụ sở: Lầu 8,9,10 Tòa nhà Gilimex, số 24C đường PĐL, Phường 6, Quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh, người đại diện hơp pháp: Ông Phạm Đình L, sinh năm 1997; địa chỉ: Lầu 8, 9, 10 tòa nhà Gilimex, số 24C PĐL, phường 6, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh, là người đại diện theo ủy quyền, theo văn bản ủy quyền ngày 13/7/2022, có mặt).

Người làm chứng: Ông Nguyễn Văn Q, sinh năm 1987 (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng tháng 12/2017, ông Nguyễn Tấn L mua 01 chiếc xe mô tô 02 bánh nhãn hiệu Yamaha Exciter biển số 69D1-344.37 bằng hình thức trả góp thông qua Công ty Tài chính TNHH HD S với số tiền vay 39.000.000 đồng. Khi mua, Lộc thuê cửa hàng xe máy TKP làm thủ tục đăng ký tại Đội CSGT-TT Công an huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau. Sau khi có giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy, Công ty Tài chính TNHH HD S chỉ đưa bản photo công chứng cho L sử dụng, còn bản chính thì công ty giữ lại. Đến khoảng tháng 3/2020, do thiếu tiền nên Lộc đã bán chiếc xe trên cho Nguyễn Nhật H với giá 20.000.000 đồng. Khi bán xe, Lộc có nói cho H biết việc L mua xe trả góp và hứa khi nào trả góp xong sẽ giao cho H giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy bản chính thì H đồng ý. Đến khoảng tháng 4/2020 H muốn bán chiếc xe trên để lấy tiền tiêu xài nên nảy sinh ý định làm giả giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy. Để thực hiện ý định trên, H lên mạng Internet liên hệ với một người không rõ lai lịch đặt làm giả giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy biển số 69D1- 344-37 mang tên Nguyễn Tấn L với giá 2.000.000 đồng. Việc trao đổi thuê người làm giấy đăng ký xe mô tô, xe máy giả và giao nhận xảy ra tại địa chỉ tạm trú của H tại khu phố BĐ 1, phường BH, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương. Tiếp đó, H bán xe mô tô biển số 69D1-344-37 cho ông Lê Thanh H với giá 15.000.000 đồng, ông H không biết giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy H đưa là giả nên tiếp tục bán cho ông Châu Văn T với giá 22.000.000 đồng. Sau đó, ông Tài đưa lại cho em ruột là ông Châu Văn Đ sử dụng và lấy từ ông Đậm 20.000.000 đồng. Ông Đ đến Đội cảnh sát giao thông Công an huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau đăng ký sang tên đổi chủ thì bị phát hiện giấy đăng ký xe trên là giả nên bị thu hồi.

Vật chứng trong vụ án: 01 xe mô tô biển số 69D1-344.37; 01 giấy đăng ký xe mô tô, xe máy mang tên Nguyễn Tấn Lộc thu giữ từ ông Châu Văn Đậm.

Tại Bản kết luận giám định số 195/GĐ-PC09 ngày 12/11/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Cà Mau kết luật:

- Phôi “GIẤY CHỨNG NHẬN ĐĂNG KÝ XE MÔ TÔ, XE MÁY” số 042764, tên chủ xe: Nguyễn Tấn Lộc, biển số đăng ký: 69D1-344.37, ngày 19/9/2018 (ký hiệu A) là giả.

- Chữ ký dưới mục “P TRƯỞNG PHÒNG” trên “CHỨNG NHẬN ĐĂNG KÝ XE MÔ TÔ, XE MÁY” số 042764, tên chủ xe: Nguyễn Tấn Lộc, biển số đăng ký: 69D1- 344.37, ngày 19/9/2018 (ký hiệu A) so với chữ ký dưới mục “Mẫu chữ ký” Tổng số: 03 (ba) mẫu: trên “BẢN THU MẪU CHỮ KÝ” (kèm theo biên bản làm việc ngày 26/10/2022 tại Phòng CSĐT Công an huyện Thới Bình (ký hiệu M2) là không phải do cùng một người ký ra.

- Hình dấu tròn màu đỏ có nội dung “ CÔNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM CÔNG AN TỈNH CÀ MAU ” dưới mục “P TRƯỞNG PHÒNG” trên “CHỨNG NHẬN ĐĂNG KÝ XE MÔ TÔ, XE MÁY” số 042764, tên chủ xe: Nguyễn Tấn Lộc, biển số đăng ký: 69D1-344.37, ngày 19/9/2018 (ký hiệu A) so với dấu tròn màu đỏ dưới mục “ P TRƯỞNG PHÒNG” trên GIẤY KHAI ĐĂNG KÝ XE ngày 01/02/2018 (ký hiệu M3) là không phải do cùng một con dấu đóng ra.

- CHỨNG NHẬN ĐĂNG KÝ XE MÔ TÔ, XE MÁY” số 042764, tên chủ xe: Nguyễn Tấn Lộc, biển số đăng ký: 69D1-344.37, ngày 19/9/2018 (ký hiệu A) là giả.

Tại Bản kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Thuận An ngày 24/8/2021 kết luận: 01 xe mô tô hai bánh nhãn hiệu Yamaha Exciter biển số 69D1-344.37 trị giá 27.000.000 đồng.

Bản Cáo trạng số 184/CT-VKS-TA ngày 08/6/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo Nguyễn Nhật H về tội sử dụng giả tài liệu của cơ quan, tổ chức theo điểm d khoản 2 Điều 341 và tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo khoản 1 Điều của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo như nội dung Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm d khoản 2 Điều 341 và khoản 1 Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Nguyễn Nhật H từ 02 năm tù đến 02 năm 06 tháng tù về tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức và 09 tháng tù đến 12 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Đối với đối tượng làm giả giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy giả cho bị cáo Nguyễn Nhật H không rõ nhân thân, địa chỉ nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thuận An sẽ tiếp tục xác minh và xử lý sau.

Đối với ông Lê Thanh H, ông Châu Văn T và ông Châu Văn Đ quá trình điều tra xác định không biết giấy chứng nhận xe mô tô, xe máy do H đưa là giả nên đã mua xe của H vì vậy Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thuận An không xem xét xử lý. Quá trình điều tra, bị cáo đã trả lại cho ông H số tiền 15.000.000 đồng, ông H đã trả lại cho ông Đ và ông T số tiền 20.000.000 đồng, giữa các bên không phát sinh tranh chấp gì khác nên đề nghị không xem xét.

Đối với chiếc xe mô tô biển số 69D1-344.37 quá trình điều tra xác định ông Nguyễn Tấn L đứng tên chủ sở hữu, ông Lộc mua xe bằng hình thức mua trả góp thông qua Công ty Tài chính HD S và Công ty hiện đang giữ bản chính giấy đăng ký xe. Sau khi mua L không trả tiền vay hàng tháng cho Công ty tài chính mà bán xe và bỏ đi đâu không rõ nên Công ty tài chính HD S yêu cầu được nhận lại chiếu xe trên để xử lý thu hồi nợ. Do nguồn gốc chiếc xe rõ ràng và yêu cầu của Công ty tài chính HD S là phù hợp nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận.

Đối với 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy biển số 69D1-344.37 mang tên Nguyễn Tấn L thu giữ từ ông Châu Văn Đ là tài liệu giả nên đề nghị tiếp tục lưu giữ trong hồ sơ vụ án.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Nhật H đã khai nhận toàn bộ hành vi như Cáo trạng truy tố. Bị cáo không có ý kiến tranh luận với lời luận tội của Kiểm sát viên và tại lời nói sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt vì gia đình có cha đang bị bệnh nặng, các con còn nhỏ. Bị cáo hứa không tái phạm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Trong các giai đoạn tố tụng từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc việc truy tố, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Kiểm sát viên đều thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; bị cáo và người tham gia tố tụng khác không khiếu nại, tố cáo về các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Về tội danh: Quá trình điều tra, truy tố bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng truy tố. Lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chừng và toàn bộ tài liệu, chứng cứ tại hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử xét thấy đã có đủ cơ sở kết luận:

Vào khoảng tháng 4/2020 tại địa bàn phường BH thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương bị cáo Nguyễn Nhật H đã thực hiện hành vi đặt làm 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 042764, tên chủ xe: Nguyễn Tấn L, biển số đăng ký: 69D1- 344.37, ngày 19/9/2018 của một đối tượng không rõ nhân thân địa chỉ thông qua mạng Internet với gia 2.000.000 đồng. Nguồn gốc giấy đăng ký xe mô tô, xe máy nêu trên là do bị cáo thỏa thuận, cung cấp thông tin cá nhân của ông Nguyễn Tấn L để người khác làm giả cho bị cáo. Do đó, hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức theo khoản 1 Điều 341 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tố chức theo điểm d khoản 2 Điều 341 Bộ luật Hình sự là chưa phù hợp và gây bất lợi cho bị cáo. Do đó Hội đồng xét xử sẽ xét xử bị cáo về tội Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức theo khoản 1 Điều 341 Bộ luật Hình sự. Sau khi có giấy đăng ký xe mô tô, xe máy giả nêu trên, bằng thủ đoạn gian dối khiến cho bị hại tin tưởng chiếc xe nêu trên là có giấy tờ hợp pháp bị cáo đã bán chiếc xe mô tô biển số 69D1-344.37 cho ông Lê Thanh H với giá 15.000.000 đồng đã đủ yêu tố cấu thành tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo khoản 1 Điều 174 của Bộ luật Hình sự. Do đó, Cáo trạng truy tố bị cáo về tội danh này và khung hình phạt nêu trên là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ của hành vi: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến hoạt động bình thường, đúng đắn của cơ quan, tổ chức trong lĩnh vực quản lý hành chính Nhà nước về con dấu, tài liệu gây mất trật tự, trị an tại địa phương. Hiện nay, tình hình làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức tại địa phương xảy ra ngày càng nhiều với tính chất tinh vi, phức tạp, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân cũng như các cơ quan, tổ chức, đặc biệt là giấy phép lái xe. Bằng thủ đoạn gian dối nêu trên, bị cáo đã bán chiếc xe trên cho người khác để lấy tiền tiêu xài đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện, thể hiện sự xem thường pháp luật, xem thường quyền sở hữu tài sản của người khác. Do đó, cần phải xử phạt bị cáo mức án nghiêm tương xứng với tính chất, mức độ hành vi mà bị cáo đã thực hiện, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm đảm bảo tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung cho xã hội.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn, hối cải, đã tự nguyện bồi thường thiệt hại và khắc phục hậu quả; gia đình bị cáo có ông cố Huỳnh Văn C là liệt sỹ, ông bà nội là ông Nguyễn Văn Đ, bà Lê Thị Ch được tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng nhì vì có công trong kháng chiến chống Mỹ nên áp dụng điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

[7] Đối với đối tượng (không rõ nhân thân, địa chỉ) làm giả giấy phép lái xe cho bị cáo Nguyễn Nhật H, quá trình điều tra chưa xác định được thông tin lai lịch, Cơ quan điều tra Công an thành phố Thuận An tiếp tục xác minh xử lý sau.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Đối với ông Lê Thanh H, ông Châu Văn T và ông Châu Văn Đ quá trình điều tra đều xác định không biết giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy do H đưa là giả nên đã mua xe của H vì vậy không xem xét xử lý là phù hợp quy định pháp luật. Quá trình điều tra, bị cáo đã trả lại cho ông H số tiền 15.000.000 đồng, ông H đã trả lại cho ông Đ và ông T số tiền 20.000.000 đồng nên giữa các bên không phát sinh tranh chấp gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[9] Về xử lý vật chứng:

- 01 xe mô tô biển số 69D1-344.37 quá trình điều tra xác định: Xe mô tô trên do ông Nguyễn Tấn L đứng tên chủ sở hữu, ông L mua xe bằng hình thức mua trả góp thông qua Công ty Tài chính HD S và Công ty hiện đang giữ bản chính giấy đăng ký xe. Sau khi mua ông L không trả tiền vay hàng tháng cho Công ty tài chính mà bỏ đi đâu không rõ và bán xe cho bị cáo nên Công ty tài chính HD S yêu cầu được nhận lại chiếu xe trên để xử lý thu hồi nợ. Do nguồn gốc chiếc xe rõ ràng và yêu cầu của Công ty Tài chính HD SaiSon là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận và sẽ giao chiếc xe trên cho Công ty tài chính HD S.

Đối với 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy biển số 69D1-344.37 mang tên Nguyễn Tấn L thu giữ từ ông Châu Văn Đ là tài liệu giả nên tiếp tục lưu giữ trong hồ sơ vụ án.

[10] Mức hình phạt mà Kiểm sát viên đề nghị xử phạt bị cáo đối với tội là lừa đảo chiếm đoạt tài sản là phù hợp nên chấp nhận. Đối với mức hình phạt đề nghị đối với tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tố chức là cao so với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nên Hội đồng xét xử sẽ xét xử bị cáo với mức hình phạt thấp hơn đề nghị của Kiểm sát viên.

[12] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 341; khoản 1 Điều 174, Điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Điều 106 và Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Nhật H phạm tội Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức và tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Xử phạt: Nguyễn Nhật H 09 (chín) tháng tù về tội Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức và 01 (một) năm tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Hình phạt chung cả 02 tội trên là 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 05/7/2022.

2. Về xử lý vật chứng:

Giao chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại xe: Exciter, màu: Xanh bạc đen, biển số 69D1-344.37 cho Công ty tài chính TNHH HD S.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 26/01/2022).

3. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Nhật H phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

331
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức và lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 198/2022/HS-ST

Số hiệu:198/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về