TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DUY XUYÊN - TỈNH QUẢNG NAM
BẢN ÁN 53/2023/HS-ST NGÀY 08/08/2023 VỀ TỘI LÀM GIẢ CON DẤU, TÀI LIỆU CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC; TỘI SỬ DỤNG CON DẤU, TÀI LIỆU GIẢ CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC
Ngày 08/8/2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam xét xử sở thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 44/2023/TLST-HS ngày 29/6/2023, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 40/2023/QĐXXST-HS ngày 25/7/2023, đối với bị cáo:
- Nguyễn Xuân N, sinh năm 1956.
Nơi sinh và cư trú: Tổ dân phố TA, thị trấn ĐP, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.
Nghề nghiệp: Hưu trí (Giáo viên). Dân tộc: Kinh, tôn giáo: Không, Quốc tịch: Việt Nam. Trình độ học vấn: 12/12. Con ông Nguyễn Nga (đã chết) và bà Ô Thị Thứ (đã chết), vợ: Lê Thị Tương Lai, sinh năm 1954; bị cáo có 03 con, lớn nhất sinh năm 1986 và nhỏ nhất sinh năm 1996.
Tiền án, tiền sự: không.
Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Lê Thị Tương Lai, sinh năm 1954. Có mặt.
Trú tại: Tổ dân phố TA, thị trấn ĐP, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.
2. Ông Nguyễn Hữu Tiến, sinh năm 1987. Có mặt.
Trú tại: Thôn Đông Yên, xã Duy Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ông Nguyễn Nga là cha ruột của bị cáo Nguyễn Xuân N lúc còn sống có tạo lập được khối tài sản là 01 mảnh đất trồng cây lâu năm thửa số 88, tờ bản đồ số 17, diện tích 3418,3m2 tọa lạc tại Tổ dân phố TA, thị trấn ĐP, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam và đã được Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ông Nguyễn Nga chết không để lại di chúc.
Vào khoảng tháng 9 năm 2022, bị cáo Nguyễn Xuân N nhận được một tin nhắn từ một số thuê bao lạ với nội dung nhận làm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Cũng tại thời điểm này, bị cáo N đến thời hạn phải thanh toán các khoản nợ tại ngân hàng nên đã liên hệ và kết bạn Zalo với số thuê bao này để trao đổi làm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa số 88, tờ bản số số 17, diện tích 3418,3m2 của ông Nguyễn Nga thừa kế sang tên của Nguyễn Xuân N với mục đích để N cầm cố Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất này cầm cố vay tiền. Mặc dù biết đây là dịch vụ làm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả nhưng N vẫn cung cấp các thông tin (căn cước công dân, Giấy chứng nhận QSD đất của ông Nga gồm: số hiệu thửa đất, tờ bản đồ, diện tích, mục đích sử dụng đất, địa chỉ thửa đất...., mảnh trích đo địa chính thửa đất…) và thỏa thuận với người này làm một Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên Nguyễn Xuân N với giá 8.000.000 đồng. Khoảng 02 tuần sau, có một nhân viên giao hàng giao cho ông N một bưu kiện, bên trong là Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (mã số CH722786, thửa đất số 88, tờ bản đồ số 17, địa chỉ thửa đất tại TA, ĐP, Quế Sơn, Quảng Nam do Nguyễn Xuân N, sinh năm 1956, trú TA, ĐP, Quế Sơn, Quảng Nam, CCCD số 049056011386 đứng tên). Sau khi kiểm tra xong, N nhận bưu kiện này và trả số tiền 8.000.000 đồng cho nhân viên giao hàng.
Đến tháng 10/2022, bị cáo Nguyễn Xuân N liên hệ với ông Nguyễn Hữu Tiến để cầm cố Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên vay số tiền 300.000.000 đồng. Do lo sợ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông N cung cấp là giả nên ông Tiến yêu cầu vợ chồng Nguyễn Xuân N đến Văn phòng công chứng Đặng Thị Bình ở thị trấn Nam Phước, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam để làm thủ tục nhằm mục đích để Tiến kiểm tra Giấy chứng nhận nêu trên là thật hay giả. Đến khoảng 12 giờ ngày 02/11/2022, theo yêu cầu của ông Tiến, bị cáo Nguyễn Xuân N cùng vợ là bà Lê Thị Tương Lai đến Văn phòng công chứng Đặng Thị Bình tại thị trấn Nam Phước, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam để làm thủ tục. Tại đây, ông N đưa Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả nêu trên cho bà Đặng Thị Bình để lập hợp đồng. Qua kiểm tra, bà Bình nghi vấn Giấy chứng nhận nêu trên là giả nên trình báo Công an thị trấn Nam Phước đến lập biên bản nên giao dịch giữa Nguyễn Xuân N và ông Nguyễn Hữu Tiến không thành và ông Tiến cũng chưa đưa tiền cho Nguyễn Xuân N.
Tại Bản Kết luận giám định số 184/KL-KTHS ngày 12/01/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Nam, kết luận: Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất trên là tài liệu giả.
Tại Cáo trạng số 41/CT-VKSDX ngày 18/6/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Duy Xuyên truy tố bị cáo Nguyễn Xuân N về tội: “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo khoản 1 Điều 341 Bộ luật hình sự (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại phiên tòa Kiểm sát viên giữ nguyên Cáo trạng truy tố bị cáo Nguyễn Xuân N về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo khoản 1 Điều 341 Bộ luật hình sự (sửa đổi, bổ sung năm 2017); đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 341; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 36 BLHS 2015 xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân N từ 12 đến 18 tháng cải tạo không giam giữ và miễn khấu trừ thu nhập do bị cáo là người cao tuổi, có hoàn cảnh khó khăn.
Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo thống nhất ý kiến luận tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện Duy Xuyên về áp dụng điều luật, khung hình phạt và xử lý vật chứng đồng thời trong lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Duy Xuyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Duy Xuyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người làm chứng không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Vào khoảng tháng 9/2022, bị cáo Nguyễn Xuân N đã liên lạc với một người không rõ lai lịch để làm 01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả đối với thửa đất số 88, tờ bản đồ số 17, diện tích 3418,3m2 tọa lạc tại Tổ dân phố TA, thị trấn ĐP, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam của ông Nguyễn Nga (cha ruột N) chết để lại đứng tên Nguyễn Xuân N bằng cách cung cấp thông tin (căn cước công dân, Giấy chứng nhận QSD đất của ông Nga gồm: số hiệu thửa đất, tờ bản đồ, diện tích, mục đích sử dụng đất, địa chỉ thửa đất...., mảnh trích đo địa chính thửa đất…) cho bên nhận làm giả với giá 8.000.000 đồng. Mục đích N làm giả Giấy tờ là để đem đi cầm cố thế chấp cho ông Nguyễn Hữu Tiến để vay số tiền 300.000.000 đồng nhưng chưa thực hiện được giao dịch nhận tiền thì bị phát hiện.
Căn cứ vào lời khai của bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; Kết luận giám định số 184/KL-KTHS ngày 12/01/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Nam, kết luận: Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất số CH 722786, số vào sổ cấp GCN: CH00456 ngày 10/8/2022 đứng tên ông Nguyễn Xuân N trên là tài liệu giả.
[3] Như vậy, hành vi trên đây của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo khoản 1 Điều 341 Bộ luật hình sự (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Do đó, Cáo trạng số: 41/CT-VKSDX ngày 18/6/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Duy Xuyên và kết luận của Kiểm sát viên truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; bị cáo hoàn toàn đủ năng lực chịu trách Nệm hình sự.
[4] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện đã xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính Nhà nước. Về nhận thức bị cáo hoàn toàn biết hành vi làm giấy tờ giả của cơ quan, tổ chức là trái pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu cá nhân của mình mà xem thường pháp luật, làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của cơ quan Nhà nước. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội đã thực hiện.
[5] Xét tình tiết tặng nặng, giảm nhẹ trách Nệm hình sự và nhân thân của bị cáo:
Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách Nệm hình sự.
Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Bị cáo là người cao tuổi, sức khỏe suy giảm, là giáo viên đã nghỉ hưu có cống hiến cho xã hội, hoàn cảnh gia đình khó khăn. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách Nệm hình sự theo quy định tại điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xét bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, ổn định nên chưa cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mà giao bị cáo về chính quyền địa phương để theo dõi, giám sát, giáo dục bị cáo.
[6] Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: Đối với tài liệu giấy tờ giả thu giữ của bị cáo Nguyễn Xuân N được lưu lại trong hồ sơ vụ án được đánh số bút lục 56 đến 57.
[7] Án phí sơ thẩm: Bị cáo là người cao tuổi, có đơn đề nghị được miễn nộp án phí nên bị cáo được miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Xuân N phạm tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo khoản 1 Điều 341 Bộ luật hình sự (sửa đổi, bổ sung năm 2017);
2. Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 341; điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân N 12 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách 24 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (08/8/2023) Giao bị cáo về cho Uỷ ban nhân dân thị trấn ĐP, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam phối hợp cùng với gia đình để giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.
3. Về xử lý vật chứng: Lưu hồ sơ vụ án tài liệu giả: 01 Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất số CH 722786, số vào sổ cấp GCN: CH00456 ngày 10/8/2022 đứng tên ông Nguyễn Xuân N được đánh số bút lục 56 đến 57.
4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Bị cáo Nguyễn Xuân N được miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (08/8/2023) bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án để đề nghị TAND tỉnh Quảng Nam xét xử phúc thẩm. Riêng người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.
Bản án về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức số 53/2023/HS-ST
Số hiệu: | 53/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Duy Xuyên - Quảng Nam |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 08/08/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về