Bản án về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức số xx/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HAI BÀ TRƯNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN XX/2021/HS-ST NGÀY 30/06/2021 VỀ TỘI LÀM GIẢ CON DẤU, TÀI LIỆU CỦA CƠ QUAN TỔ CHỨC

Ngày 30/6/2021, tại Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 187/2021/TLST-HS ngày 07 tháng 6 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 196/2021/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo:

Doãn Thị C, sinh năm 1973; Nơi ĐKHKTT: Số X tổ V phường T, quận H, Hà Nội; Chỗ ở: Số V ngõ II, phường Đ, quận H, TP. Hà Nội; Quốc tịch: V Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12. Nghề nghiệp: Kinh doanh photo; Con ông: Doãn Thế C (đã chết) và con bà: Vũ Thị C1; Chồng là Lê Quốc H; Có 1 con sinh năm 1998; Tiền án: Không; Tiền sự: Không. (Theo Danh chỉ bản số 180 lập ngày 22/3/2021 tại Công an quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội). Bị can hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

Anh Nguyễn H T, sinh năm 1990. (Vắng mặt tại phiên tòa). Trú tại: số II ngõ IX, phường Q, quận B, Hà Nội.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Doãn Thị C thuê nhà tại số VII, phường Đ, quận H, thành phố Hà Nội để kinh doanh quán photo VM. Khoảng tháng 01/2021 có một người phụ nữ tên H (không rõ nhân thân lai lịch) đến cửa hàng photo VM của C để thuê sửa chuyên đề tốt nghiệp cho sinh viên Nguyễn Quỳnh M học tại Học viện ngân hàng và xin giấy “Nhận xét và xác nhận của đơn vị thực tập” của Ngân hàng NN&PTNT huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội. C đồng ý, báo giá sửa chuyên đề tốt nghiệp là 1.200.000 đồng, xin giấy xác nhận thực tập là 100.000 đồng/01 tờ. Người phụ nữ đó đồng ý, nhờ C xin giúp 02 tờ giấy xác nhận, 01 tờ điền tên Nguyễn Quỳnh M và 01 tờ để trống thông tin và đưa trước 1.200.000 đồng. Sau đó, C giao cho nhân viên sửa chuyên đề, còn việc xin xác nhận Ngân hàng, do C không có mối quan hệ nào để xin nên đã nghĩ ra cách bảo nhân viên tên M (là nhân viên làm tại quán photo VM của C) lên mạng internet tìm hình dấu của Ngân hàng NN&PTNT huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội tải về, rồi dùng phần mềm ghép hình dấu đó vào tờ “Nhận xét và xác nhận của đơn vị thực tập” rồi in màu ra 03 bản (trong đó có một bản điền sẵn tên sinh viên M). Sau đó, C tự ký tên ông Nguyễn Thành C- là Giám đốc ngân hàng lên các hình dấu của Ngân hàng. Khi làm xong C in ra 02 quyển “C đề tốt nghiệp” và kẹp 02 tờ giấy xác nhận thực tập giả vào mỗi quyển trong đó, một tờ đã điền thông tin, một tờ để trống thông tin. Còn 01 tờ trống thông tin do bị bẩn nên C cất đi. Ngày 18/01/2021, C gọi vào số điện 0928582xxx của H bảo đến lấy tài liệu, C không nói với H việc làm giả hình dấu Ngân hàng NN&PTNT huyện Phú Xuyên. H nhờ C viết tên sinh viên Nguyễn Anh V lên tờ xác nhận nhưng C không viết. Sau đó, anh Nguyễn H T là xe ôm đến lấy tài liệu cho H và thanh toán cho C nốt 200.000 đồng. Anh T đưa C 01 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng thì bị cơ quan Công an phát hiện bắt quả tang thu giữ 02 quyển chuyên đề tốt nghiệp Học viện ngân hàng mang tên sinh viên Nguyễn Quỳnh M; 02 tờ nhận xét cho Nguyễn Quỳnh M và xác nhận của đơn vị thực tập có chữ ký và dấu Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Phú Xuyên, Hà Nội; 01 tờ nhận xét và xác nhận của đơn và xác nhận của đơn vị thực tập chưa điền nội dung, có chữ ký, dấu ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Phú Xuyên, Hà Nội; 02 bản có chữ ký Nguyễn Thành C. Ngoài ra, cơ quan công an thu giữ: 01chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone Xs Max màu hồng, 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Samsung Galaxy A11 màu xanh, 01 máy in màu nhãn hiệu Canon G1010 màu đen, 01 cây máy tính nhãn hiệu Dell Optiplex 990 màu đen, 01 cây máy tính có chữ Orient màu đen, 01 cây máy tính không rõ nhãn hiệu màu đen, 01 chiếc máy tính xách tay nhãn hiệu Samsung RV408 màu đen và số tiền 500.000 đồng.

Tại bản kết luận giám định số 1790/KLGĐ-PC09 ngày 4/03/2021 của phòng KTHS- Công an thành phố Hà Nội kết luận:

- Hình dấu tròn “NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN H. Phú Xuyên, TP. Hà Nội”, chữ ký đứng tên Nguyễn Thành C trên các mẫu cần giám định ký hiệu A1, A2, A3 với hình dấu tròn “NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN H. Phú Xuyên, TP. Hà Nội”, chữ ký đứng tên Nguyễn Thành C trên mẫu so sánh ký hiệu M1 không phải do cùng một con dấu đóng ra và không phải là chữ do cùng một người ký ra.

- Người ký ra chữ ký đứng tên Nguyễn Thành C trên mẫu so sánh ký hiệu M2 ký ra chữ ký đứng tên Nguyễn Thành C trên các mẫu cần giám định ký hiệu A2, A3.

- Không đủ cơ sở kết luận người ký ra chữ ký đứng tên Nguyễn Thành C trên mẫu so sánh ký hiệu M2 có ký ra chữ ký đứng tên Nguyễn Thành C trên mẫu cần giám định ký hiệu A1 hay không.

Tại cơ quan điều tra, Doãn Thị C khai nhận hành vi phạm tội như trên.

Tại bản cáo trạng số 171/CT-VKS-HBT ngày 31/5/2021 Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng đã truy tố Doãn Thị C về tội Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức theo điểm c khoản 2 Điều 341 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Doãn Thị C giữ nguyên lời khai như đã khai tại cơ quan điều tra, thừa nhận nội dung, tội danh mà Viện kiểm sát truy tố bị cáo là đúng. Bị cáo thành khần khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo có bác ruột là ông Doãn Thế Cung là người có công với cách mạng, được Nhà nước tặng thưởng nhiều huân huy chương để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng sau khi xem xét đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo đã giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 341;

điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự. Xử phạt:

Doãn Thị C từ 24 tháng đến 30 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 48 đến 60 tháng kể từ ngày tuyên án.

Tịch thu sung Ngân sách nhà nước 01chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone Xs Max màu hồng, 01 cây máy tính có chữ Orient màu đen, 01 máy in màu nhãn hiệu Canon G1010 màu đen và số tiền 200.000 đồng thu giữ của C;

Trả lại anh Nguyễn H T số tiền 300.000 đồng là tài sản cá nhân của anh T. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Tại lời nói sau cùng, Doãn Thị C đã nhận thức được hành vi phạm tội của mình, ăn năn hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo lần đầu phạm tội để giảm một phần hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết đinh tố tụng của cơ quan điều tra, công an quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa thống nhất với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, biên bản thu giữ tài liệu đồ vật và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận: Ngày 18/02/2021 tại địa chỉ số VII, phường Đ, quận H, thành phố Hà Nội, Doãn Thị C đã có hành vi làm giả 03 tờ nhận xét cho sinh viên thực tập có chữ ký của giám đốc ông Nguyễn Thành C và dấu tròn của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Phú Xuyên, Hà Nội. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội bởi đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính của cơ quan Nhà nước, xâm phạm trật tự kỷ cương xã hội và đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức” được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 341 Bộ luật Hình sự. Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng truy tố bị cáo ra xét xử theo tội danh và điều luật đã viện dẫn là có căn cứ pháp lý.

[3] Bản thân bị cáo C nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật, nhận thức rõ những ảnh hưởng và tác hại từ hành vi vi phạm pháp luật của mình gây ra đối với xã hội nhưng vì mục đích tư lợi và ý thức coi thường pháp luật mà bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Do vậy cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo mới đủ sức răn đe giáo dục và phòng ngừa chung. Tuy nhiên khi lượng hình có xem xét bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, lần đầu phạm tội. Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo có bác ruột là ông Doãn Thế D là người có công với cách mạng, được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Nhì trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và Huân chương chiến sỹ vẻ vang hạng Nhất nên áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm một phần hình phạt cho bị cáo. Xét thấy bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng nên áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự cho bị cáo được cải tạo ngoài xã hội dưới sự giám sát giáo dục của chính quyền địa phương nơi cư trú trong thời gian thử thách cũng đủ giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt.

[4] Về hình phạt bổ sung: Đối với loại tội này ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Xét bị cáo hoàn cảnh gia đình khó khăn, không có việc làm và thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Đối với Nguyễn H T là người đi xe ôm đến lấy tài liệu giúp H, T không biết việc C làm giả giấy tờ, không biết nhân thân lai lịch của H, chỉ biết H nhờ đến lấy giấy tờ nên cơ quan CSĐT- Công an quận Hai Bà Trưng không xử lý đối với T là có căn cứ.

Qua xác minh số điện thoại 0928582xxx xác định chủ thuê bao là Bùi Quang H. Anh H không sử dụng số thuê bao trên, anh không biết tại sao mình lại đứng chủ thuê bao di động trên và cũng không biết ai là C. Xác minh tại Trường Học viện Ngân hàng không có sinh viên nào tên Nguyễn Quỳnh M và Nguyễn Anh V có thông tin như trong quyển chuyên đề trên. Do chưa xác định được nhân thân lai lịch của M (nhân viên quán photo VM), H, Nguyễn Quỳnh M, Nguyễn Anh V nên Cơ quan CSĐT- Công an quận Hai Bà Trưng tách tài liệu liên quan đến hành vi của M, H, Nguyễn Quỳnh M, Nguyễn Anh V để tiếp tục điều tra làm rõ, xử lý sau là có căn cứ.

[6] Về vật chứng: Đối với tài sản thu giữ là 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Samsung Galaxy A11 màu xanh, 01 cây máy tính nhãn hiệu Dell Optiplex 990 màu đen, 01 cây máy tính không rõ nhãn hiệu màu đen, 01 chiếc máy tính xách tay nhãn hiệu Samsung RV408 màu đen do quá trình điều tra xác định không liên quan đến hành vi phạm tội nên ngày 26/5/2021, cơ quan CSĐT- Công an quận Hai Bà Trưng trao trả tài sản trên cho Doãn Thị C là có căn cứ.

Đối với 01chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone Xs Max màu hồng, 01 cây máy tính có chữ Orient màu đen, 01 máy in màu nhãn hiệu Canon G1010 màu đen C dùng để làm giả con dấu tài liệu, quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định các tài sản này liên quan đến hành vi phạm tội của C nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Đối với số tiền 500.000 đồng thu giữ của Doãn Thị C, quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định 200.000 đồng là tiền thu lời bất chính do C làm giả giấy tờ nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước. Số tiền 300.000 đồng là tài sản cá nhân của anh Nguyễn H T nên trả lại cho anh T.

Đối với số tiền 200.000 đồng do C nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Hai Bà Trưng (biên lai số AA/2020/0008073 ngày 15/6/2021). Theo các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ và tại phiên tòa thể hiện cơ quan điều tra đã thu giữ số tiền thu lời bất chính của C, việc bị cáo tự nguyện nộp số tiền thu lời bất chính tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Hai Bà Trưng là không cần thiết, do vậy cần trả lại C số tiền này nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[7] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo C phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Doãn Thị C phạm tội: Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức.

2. Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 341; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt Doãn Thị C 28 (hai mươi tám) tháng tù nhưng cho hưởng án treo.

Thời gian thử thách 56 tháng kể từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo C cho Ủy ban nhân dân phường Đ, quận H, thành phố Hà Nội giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự hai lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo C.

3. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu sung Ngân sách nhà nước 01chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone Xs Max màu hồng, 01 cây máy tính có chữ Orient màu đen, 01 máy in màu nhãn hiệu Canon G1010 màu đen và số tiền 200.000 đồng;

Trả lại anh Nguyễn H T số tiền 300.000 đồng là tài sản cá nhân của anh T.

(Vật chứng đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Hai Bà Trưng theo Biên bản giao nhận vật chứng số 235/2021 ngày 25/6/2021 và Giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 25/6/2021).

Trả lại bị cáo Doãn Thị C số tiền 200.000 đồng do C đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Hai Bà Trưng theo biên lai số AA/2020/0008073 ngày 15/6/2021 nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

4. Về án phí và quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 136, Điều 331, 333, 337 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án:

Bị cáo Doãn Thị C phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn H T có quyền kháng cáo bản án đối với những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ được tống đạt bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

438
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức số xx/2021/HS-ST

Số hiệu:xx/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về