TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LÀO CAI, TỈNH LÀO CAI
BẢN ÁN 65/2022/HSST NGÀY 05/07/2022 VỀ TỘI LÀM GIẢ CON DẤU, TÀI LIỆU CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC
Ngày 05 tháng 7 năm 2022 tại phòng xét xử Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai,tỉnh Lào Cai. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 67/2022/HSST ngày 07/6/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 25/QĐXXST- HS ngày 22 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo:
Nguyễn Thu H , tên gọi khác: Không;Giới tính:Nữ; sinhngày 02/12/1979 tại huyện B, tỉnh L; nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12 Hộ khẩu thường trú: Tổ 34, phường K, thành phố L, tỉnhL.
Nơi cư trú: Số nhà 011, đường A, tổ 34, phường K, thành phố L, tỉnh L.
Tiền án: không; Tiền sự: Không Về nhân thân: Chưa bị xử lý hành chính, hay bị truy tố xét xử.
Con ông: Nguyễn Ngọc Q (đã chết); con bà: Trần Thị S (đã chết). Chồng: Lê Thanh B, sinh năm 1974, trú tại tổ A, phường Kim Tân, thành phố Lào Cai (ly hôn năm 2016).
Bị cáo có 02 con, lớn sinh năm 2001, nhỏ sinh năm 2005 đều trú tại tổ 34, phường Kim Tân, thành phố Lào Cai.
Bị cáo Nguyễn Thu H bị bắt tạm giam từ ngày 26/9/2021, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Lào Cai. Có mặt tại phiên tòa.
Người làm chứng:
Anh Nguyễn Đình N ; Địa chỉ: Tổ 08, phường Bắc Cường, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai.
Anh Đỗ Trung K n; Địa chỉ: Tổ 24, phường Bắc Cường, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai.
Anh Đỗ Ngọc V ; Địa chỉ: Tổ 16, phường Bắc Lệnh, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai.
Anh Dì Quang H ; Địa chỉ: Tổ 01, phường Lào Cai, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai.
Chị Đào Thị M ; Địa chỉ: Tổ 17, phường Pom Hán, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai.
Chị Lê Thị Thu H ; Địa chỉ: Tổ 11, phường Kim Tân, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai.
Chị Nguyễn Thị V ; Địa chỉ: Tổ 10, phường Cốc Lếu, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai.
Chị Phạm Linh Ch ; Địa chỉ: Tổ 08A, phường Nam Cường, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai.
Chị Phạm Phương Ch ; Địa chỉ: Tổ 05, phường Bình Minh, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai.
Tất cả người làm chứng có đơn xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Thu H có vay vốn tại ngân hàng Vietcombank chi nhánh Lào Cai, hồ sơ vay vốn của Nguyễn Thu H , Nguyễn Mạnh Hà là cán bộ phòng khách hàng thẩm định quản lý. Nguyễn Thu H đã cho Hà vay tiền để Hà cho vay xoay vòng vốn và kinh doanh bên ngoài. Đến tháng 6/2019 Nguyễn Thu H đã cho Hà vay nhiều lần với tổng số tiền 5,7 tỷ đồng. Nguyễn Thu H đã nhiều lần đòi tiền Hà nhưng Hà không có tiền để trả. Do phải trả nợ đối với các khoản vay nên trong khoảng thời gian từ tháng 9/2019 đến tháng 01/2020, Nguyễn Thu H đã cùng Nguyễn Mạnh Hà giả 5 đăng ký xe và tự mình làm giả 1 hợp đồng mua bán xe, một biên lai thu tiền. Với mục đích vay vốn tại Ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương (Vietcombank) và Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn- Hà Nội (SHB) chi nhánh Lào Cai, cụ thể:
Lần thứ nhất: Khoảng đầu tháng 9/2019 Hương nhờ chị Phạm Phương Chi, sinh năm: 1976, nơi cư trú: Tổ 5, phường Bình Minh, thành phố Lào Cai đứng tên chủ sở hữu chiếc xe ô tô xe Mecerdes. Hương đã chụp ảnh giấy Chứng minh nhân dân và sổ hộ khẩu của Chi rồi gửi cho Nguyễn Mạnh Hà để Hà làm giả giấy đăng ký xe ô tô đứng tên của Phạm Phương Chi. Sau đó Hương và Chi ra Văn phòng công chứng Lê Văn Hạnh số 027, đường Quy Hoá, Phường Kim Tân, thành phố Lào Cai, dùng giấy tờ giả ra để Hương và Chi làm thủ tục mua bán chiếc xe ô tô nhãn hiệu Mecerdes-Benz C200 BKS: 24A-122.36 cho Hương với giá 01 tỷ đồng. Sau đó Ngày 11/10/2019 Hương lên ngân hàng Vietcombank chi nhánh Lào Cai, thế chấp xe ô tô ô tô nhãn hiệu Mecerdes-Benz C200 BKS:
24A-122.36 vay số tiền 01 tỷ đồng, khi được giải ngân Hương đã mượn tài khoản số 0951004207156 của chị Đào Thị Mai để giải ngân vào tài khoản của Mai. Mai đã rút số tiền 01 tỷ đồng tại quầy giao dịch rồi đưa hết số tiền này cho Hương.
Lần Thứ 2: Nguyễn Thu H và Hà làm giả 02 giấy tờ của 02 xe ô tô cứu thương BKS: 24A-136.35 và BKS: 24A-135.93 mang tên Nguyễn Thu H sau đó Nguyễn Thu H thế chấp giấy tờ xe trên vào ngân hàng VCB Lào Cai vay số tiền 850 triệu đồng mục đích vay bù tiền mua 02 xe ô tô trên. Hương đã mượn tài khoản số 0951004199455 của chị Lê Thị Thu Hoài là nhân viên làm thuê tại căng tin của Hương. Ngày 09/12/2019 Hương lên ngân hàng VCB Lào Cai để ký kết Hợp đồng cho vay từng lần trung dài hạn số: 19KH/CN-ĐB/THTL 1876, khi tiền được giải ngân vào tài khoản của Hoài, Hoài rút toàn bộ số tiền 850 triệu được giải ngân và đưa cho Hương.
Lần thứ 3: Khoảng đầu tháng 01/2020, Nguyễn Thu H và Hà làm giả giấy tờ 02 xe ô tô cứu thương BKS 24A-138.72 và 24A 137.84 đứng tên của Hương, thế chấp tiếp vào ngân hàng vay tiền, số tiền vay được Hà và Hương thoả thuận số tiền chi phí làm giả 02 giấy tờ của 02 xe ô tô này hết 200 triệu, mỗi người chịu một nửa, Hà sẽ chịu trách nhiệm thanh toán tiền gốc, lãi cho ngân hàng như những lần trước, Hương gửi ảnh chụp Chứng minh nhân dân và sổ hộ khẩu cho Hà để Hà làm giấy tờ giả. Hà đã nhờ chị Vững giới thiệu Dì Quang Huy là cán bộ phòng tín dụng ngân hàng SHB Phố Mới tên để Huy kiểm tra xem có đủ điều kiện vay không. Sau đó Huy đã kiểm tra thông tin tại căng tin bệnh viện thẩm định thực trạng kinh doanh của Hương, và khả năng trả nợ của Hương, yêu cầu Hương đưa 02 xe ô tô để ngân hàng thẩm định, đánh giá, Hương lấy lý do 02 xe ô tô cứu thương đang đi chở bệnh nhân không có tại Lào Cai, khi nào xe ô tô về sẽ đưa xe lên cho ngân hàng thẩm định, đánh giá. Trong thời gian này, Hà bảo Hương ứng trước 40 triệu để trả cho chủ xe đưa lên ngân hàng để thẩm định. Khi 02 xe ô tô cứu thương BKS 24A-138.72 và 24A 137.84 lên đến thành phố Lào Cai, Hương đã đưa xe ô tô lên cho Dì Quang Huy và Đỗ Ngọc Vũ thẩm định và kiểm tra các giấy tờ (Hợp đồng mua bán xe của Hương với Công ty Đông Nam + Hoá đơn nộp tiền). Ngày 17/01/2020 Nguyễn Thu H ký kết Hợp đồng thế chấp tài sản số 06/2020/HĐTC-CN/SHB.101901 và các hợp đồng khác thế chấp 02 xe ô tô cứu thương BKS 24A-138.72 và 24A 137.84 vay số tiền 900.000.000đ (chín trăm triệu đồng) với ngân hàng SHB Phố Mới, mục đích vay vốn: Bổ sung vốn lưu động phục vụ hoạt động kinh doanh hàng tạp hoá. Quá trình được tư vấn các khoản vay, Hương đã đồng ý mua 01 gói bảo hiểm nhân thọ của chị Phạm Linh Chi (sinh năm 1995, trú tại tổ 8A, phường Nam Cường, thành phố Lào Cai) là nhân viên bảo hiểm DAIICHI LIFE ngồi tại văn phòng ngân hàng SHB Phố Mới. Khi được ngân hàng yêu cầu cung cấp tài khoản bên thứ 3 để giải ngân, Hương có nhờ số tài khoản 1015461086 của chị Chi, chị Chi đồng ý. Cùng ngày Ngân hàng SHB Phố Mới giải ngân số tiền vay 900.000.000đ (chín trăm triệu đồng) vào tài khoản của của chị Chi. Chị Chi đã rút số tiền trên tại quầy giao dịch rồi đưa lại số tiền này cho Hương. Sau khi nhân được số tiền giải ngân, Hương đã thanh toán tiền bảo hiểm nhân thọ và cầm số tiền còn lại đi ra xe ô tô của Hà đợi trước cửa ngân hàng. Trong xe ô tô, Hương và Hà đã thống nhất số tiền 100 triệu làm giấy tờ giả + 35 triệu gồm: tiền mua bảo hiểm vật chất của 02 xe ô tô này hết 25,2 triệu + 10 triệu bảo hiểm nhân thọ) mỗi người chịu một nửa là 67,5 triệu; Hà vay lại 200 triệu, Hương cầm hết số tiền còn lại. Hương sẽ phải chịu tiền gốc + lãi 67,5 triệu, Hà sẽ phải chịu tiền gốc + lãi 832,5 triệu Đến ngày 17/7/2020 Hương không có tiền để thanh toán khế ước nhận nợ số tiền 900 triệu đồng, Hương đã nhờ Dì Quang Huy giúp đỡ tìm người cho Hương vay số tiền 900 triệu từ bên ngoài để xoay vòng vốn tiếp tục vay tại ngân hàng SHB Phố Mới. Huy đã giới thiệu Trần Văn Tuyên (sinh năm 1995, trú tại thành phố Móng Cái, Quảng Ninh) khi đó đang cư trú và làm việc tại thành phố Lào Cai. Tuyên đã gọi điện cho Hương để xác nhận việc trên, Hương đã đề nghị Tuyên cho Hương vay số tiền 900 triệu đồng để nộp vào tài khoản ngân hàng SHB của Hương để trả nợ cho ngân hàng, sau đó Hương sẽ làm thủ tục vay lại ngân hàng để trả luôn cho Tuyên, Tuyên đồng ý đã cho Hương vay số tiền 900 triệu trả cho ngân hàng SHB Phố Mới theo khế ước nhận nợ số: 01- 08/2020/HĐHM-CN/SHB.110901. Ngày 27/7/2020 ngân hàng SHB Lào Cai đã giải ngân số tiền 900 triệu đồng vào số tài khoản 1016567989 của Trần Văn Tuyên. Khi nhận được tiền, Tuyên đã sử dụng số tiền trên vào việc kinh doanh của bản thân Quá trình điều tra Nguyễn Thu H khai báo tất cả những giấy tờ giả do Hương cung cấp cho 02 ngân hàng trên đều do Nguyễn Mạnh Hà làm và đưa cho Hương, sau khi nhận được tiền từ ngân hàng, Hương đã giao lại một phần tiền cho Hà để Hà thanh toán tiền làm giấy tờ giả.
Cơ quan điều tra xác định, những giấy tờ giả này đều do Nguyễn Thu H giao nộp cho nhân viên ngân hàng để làm thủ tục vay vốn. 03 khoản vay trên của Hương đều được ngân hàng giải ngân vào tài khoản bên thứ 3 do Hương yêu cầu, những người nhận được tiền từ việc giải ngân đã rút tiền mặt tại quầy giao dịch và giao hết cho Hương tổng số tiền là 2.750.000.000đ (Hai tỷ bảy trăm năm mươi triệu đồng).
Ngày 09/8/2021 Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai ra Bản kết luận giám định số 52 kết luận:
02 Phôi Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô Đăng ký xe số 033977 (cấp cho xe có biển kiểm soát 24A-138.72) và đăng ký xe số 033914 (cấp cho xe có biển kiểm soát 24A-137.84) là giả;
Ngày 20/9/2021 Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai ra bản Kết luận giám định số 58 Kết luận: 03 Phôi Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 033872 (cấp cho xe có biển kiểm soát 24A-135.93); giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 033864 (cấp cho xe có biển kiểm soát 24A-136.35) và Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 033286 (cấp cho xe có biển kiểm soát 24A- 122.36) là giả.
Ngày 12/01/2022 Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai ra bản Kết luận giám định số 04 Kết luận:
Hình dấu tròn có nội dung “CÔNG TY CỔ PHẦN Ô TÔ HUYNDAI ĐÔNG NAM” trên mẫu cần giám định ký hiệu A1, A2 là dấu đóng trực tiếp, các hình dấu này có cùng nội dung trên mẫu so sánh nhưng không phải do cùng một con dấu đóng ra.
Hình dấu chức danh “Phó giám đốc – Đinh Đoan Hùng” dưới mục “Bên bán” trên tài liệu cần giám định ký hiệu A2 là dấu đóng trực tiếp. Hình dấu này với hình dấu chức danh “Tổng giám đốc - Đinh Đoan Hùng” trên mẫu so sánh không có cùng nội dung nên không tiến hành giám định.
Chữ ký, chữ viết họ tên mang tên Nguyễn Thu H dưới mục “Người nộp tiền” trên tài liệu giám định ký hiệu A1 với chữ ký, chữ viết của Nguyễn Thu H trên mẫu so sánh do cùng một người ký ra.
Chữ ký mang dấu chức danh “Phó giám đốc - Đinh Đoan Hùng” dưới mục “Bên bán” trên tài liệu cần giám định A2 với chữ ký của Đinh Đoan Hùng trên mẫu so sánh không phải do cùng một người ký ra Tại bản cáo trạng số 15/CT - VKSTP ngày 22/3/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Thu H “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b,c khoản 2 Điều 341 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai vẫn giữ nguyên quan điểm như bản cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo. Sau khi phân tích và đánh giá tính chất mức độ thực hiện hành vi phạm tội của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 341; điểm s khoản 1; khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự.
Xử phạt Nguyễn Thu H mức án từ 03 (ba) năm đến 04 (bốn) năm tù về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có tài sản, không có thu nhập gì nên không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Về vật chứng xử lý theo quy định của pháp luật. Tính án phí cho bị cáo theo quy định của pháp luật Tại phiên toà: Bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như tóm tắt ở trên và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Thu H : Vào khoảng tháng 9/2019 đến tháng 01 năm 2020. Do nợ tiền để có thể vay được tiền trả nợ Nguyễn Thu H Hương đã gửi chứng minh thư nhân dân và sổ hộ khẩu cho Nguyễn Mạnh Hà làm giả 05 đăng ký xe và Hương là người trực tiếp trả tiền thuê việc làm giả 05 đăng ký xe, bản thân Hương trực tiếp làm giả 01 hợp đồng mua bán xe ô tô và 01phiếu thu mục đích sử dụng để thế chấp xe ô tô vay vốn tại các Ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương (Vietcombank) và Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn-Hà Nội (SHB) chi nhánh Lào Cai tổng số tiền là 2.750.000.000đ (Hai tỷ bảy trăm năm mươi triệu đồng).
Nguyễn Thu H đã trực tiếp giao dịch với ngân hàng (Vietcombank) và Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn-Hà Nội (SHB) chi nhánh Lào Cai để làm thủ tục vay tiền và thế chấp xe, cũng như cùng Hà chỉ đạo người mang xe đến ngân hàng để thẩm định, đồng thời nhờ Phạm Phương Chi đứng tên để làm giấy tờ xe giả và nhận mua lại xe của Chi, Nguyễn Thu H nhờ chị Đào Thị Mai, chị Lê Thị Thu Hoài cho mượn tài khoản để ngân hàng giải ngân tiền cho bị cáo vào tài khoản của Mai, Hoài và Chi. Quá trình điều tra Hương không thừa nhận có ý định chiếm đoạt số tiền này, sau khi vay được tiền thì hàng tháng Hương đều thực hiện trả gốc lãi theo đúng hợp đồng. Đối với ba lần sử dụng giấy tờ giả để vay này thì đã tất toán 01 hợp đồng, 01 hợp đồng đã có quyết định công nhận thỏa thuận trong vụ án dân sự của Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai và 01 hợp đồng đang được Tòa án thụ lý giải quyết vụ án dân sự. Vì vậy Cơ quan điều tra không đề cập xử lý trong vụ án này, tách ra xem xét xử lý sau về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản là đúng quy định của pháp luật.
Hành vi nêu trên đã được bị cáo Nguyễn Thu H khai nhận tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Như vậy, đã có đủ căn cứ để kết luận bị cáo Nguyễn Thu H đã phạm tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” Vì mục đích của Nguyễn Thu H làm giả để sử dụng. Nên Hội đồng xét xử xem xét hành vi làm giả 07 tài liệu giả gồm 05 đăng ký xe ô tô, 01 hợp đồng mua bán xe ô tô và 01 phiếu thu, mục đích sử dụng để thế chấp xe ô tô vay vốn tại các Ngân hàng. Bởi lẽ, trong bản tự khai bản thân bị cáo đã chủ động gửi chứng minh thư nhân dân của bị cáo cho Hà và là người trực tiếp trả tiền thuê làm giả. Bản thân bị cáo biết 5 chiếc xe đó không có thật không phải là của bị cáo. Do vậy, Nguyễn Thu H phải chịu trách nhiệm trong việc làm giả 5 đăng ký xe và 1 hợp đồng mua xe; 01 phiếu thu. Hành vi của bị cáo Nguyễn Thu H là hành vi “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 3 Điều 341 Bộ luật hình sự.” ..Làm từ 6 con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác trở lên.”. Tuy nhiên, Viện kiểm sát truy tố bị cáo Nguyễn Thu H về tội danh và điều luật như đã viện dẫn ở trên là chưa đúng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo, chưa thể hiện nghiêm minh của pháp luật. Do vậy Hội đồng xét xử căn cứ khoản 3 điều 298 Bộ luật tố tụng hình sự để xử bị cáo theo điểm a khoản 3 điều Điều 341 Bộ luật hình sự mới thoả đáng. Xét tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền quản lý của cơ quan tổ chức trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước, quyền sở hữu về tài sản của doanh nghiệp được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương, gây tâm lý hoang mang lo lắng trong quần chúng nhân dân. Hội đồng xét xử cần phải áp dụng một mức án nghiêm khắc và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian nhất định mới có thể giáo dục bị cáo trở thành người sống có ích cho xã hội, đồng thời có tác dụng giáo dục, cải tạo và phòng ngừa chung.
[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
Về nhân thân: Bị cáo Nguyễn Thu H chưa bị xử lý hành chính, hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.
[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo sau khi phạm tội đã thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình, bố đẻ của bị cáo ông Nguyễn Ngọc Quyết được nhà nước tặng Huy chương kháng chiến hạng nhì đã có thành tích trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Đây là những tình tiết giảm nhẹ cho nên cần áp dụng điểm s Khoản 1; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo là phù hợp với quy định của pháp luật.
[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 4 Điều 341 Bộ luật hình sự quy đinh “Người phạm tội có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng”, do đó bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên bị cáo không có tài sản riêng gì nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[7] Về vật chứng vụ án:
Đối với 01 chứng minh nhân dân số 063089234 mang tên Nguyễn Thu H đây là những giấy tờ cá nhân của Nguyễn Thu H nên cần trả lại cho bị cáo.
Đối với 05 giấy đăng ký xe; phiếu thu (bản gốc) của Công ty cổ phần ô tô HUYNDAI Đông Nam; hợp đồng (bản gốc) mua bán xe ô tô giữa Công ty cổ phần ô tô HUYNDAI Đông Nam và Nguyễn Thu H cần tiếp tục lưu giữ trong hồ sơ vụ án.
Đối với 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s Plus, màu vàng, số IMEI: 355737077824371, trong điện thoại có lắp 01 thẻ sim nhà mạng viettel số 0928991979 là phương tiện để Nguyễn Thu H gửi tài liệu đi cho Nguyễn Mạnh Hà trong việc làm giả tài liệu do vây cần tịch thu sung quỹ nhà nước.
Đối với 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6, màu vàng, số IMEI: 359478083090683 ; 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu VSMART màu đen số IMEI 1: 355123116345431, số IMEI 2: 355123116345449, điện thoại có lắp 01 thẻ sim nhà mạng Viettel có dãy số 89840480003319894325 là những tài sản mà Nguyễn Thu H không niên quan đến vụ án nhưng bị cáo còn phải thi hành tiền án phí nên cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
Đối với Nguyễn Mạnh Hà đã chết ngày 29/4/2020, nguyên nhân chết do đuối nước nên cơ quan điều tra không làm rõ được những nội dung liên quan đến hành vi phạm tội của Nguyễn Thu H , nên không đề cập đến việc xử lý.
Đối với Phạm Linh Chi là những người được Nguyễn Thu H nhờ đứng tên chủ sở hữu chiếc xe ô tô nhãn hiệu Mecerdes-Benz C200 BKS: 24A-122.36 Chi hoàn toàn không biết viết làm giả đăng ký xe của Nguyễn Thu H , nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý. Đào Thị Mai, Lê Thị Thu Hoài được Hương nhờ tài khoản để giải ngân vay số tiền của ngân hàng. Những Người này sau khi nhận được tiền giải ngân của các ngân hàng đã giao lại cho Nguyễn Thu H , những người này không được hưởng lợi gì và cũng không biết việc Hương làm giả, sử dụng tài liệu giả của cơ quan tổ chức để thực hiện việc vay vốn của ngân hàng, Cơ quan điều tra không đề cập xử lý.
Đối với chủ sở hữu của 05 xe ô tô và những người điều khiển xe ô tô lên để thẩm định tại hai ngân hàng, Hương khai báo đều do Nguyễn Mạnh Hà liên hệ để đưa xe ô tô lên, Hương không quen biết gì những người điều khiển xe ô tô này, Hương cũng không nhớ biển số có đầu số 29 gắn trên các xe ô tô này khi di chuyển tới thành phố Lào Cai, cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh.
Đối với Nguyễn Đình Nam; Đỗ Trung Kiên là cán bộ ngân hàng VCB tỉnh Lào Cai; Dì Quang Huy là cán bộ ngân hàng SHB Phố Mới, tỉnh Lào Cai khi tiến hành các thủ tục cho Nguyễn Thu H vay vốn tại Ngân hàng đã thực hiện theo Quyết định ban hành quy trình tín dụng đối với khách hàng cá nhân không biết Nguyễn Thu H sử dụng tài liệu giả, không được hưởng lợi gì từ việc trên, Cơ quan điều tra không đề cập xử lý.
[8] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 khoản 2 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 điều 38; khoản 3 điều 298; điểm a khoản 3 Điều 341 Bộ luật hình sự điểm s, khoản 1; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thu H phạm tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” Xử phạt bị cáo Nguyễn Thu H 03 (ba) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt 26/9/2021.
Về vật chứng: Căn cứ điểm b Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm b Khoản 2 khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;
Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s Plus, màu vàng, số IMEI: 355737077824371, trong điện thoại có lắp 01 thẻ sim nhà mạng viettel số 0928991979;
Tiếp tục tạm giữ 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6, màu vàng, số IMEI: 359478083090683; 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu VSMART màu đen số IMEI 1: 355123116345431, số IMEI 2: 355123116345449, điện thoại có lắp 01 thẻ sim nhà mạng Viettel có dãy số 89840480003319894325 của Nguyễn Thu H để đảm bảo thi hành án tiền án phí Trả lại cho bị cáo 01 (Một) chứng minh nhân dân số 063089234 mang tên Nguyễn Thu H .Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 28 tháng 3 năm 2022 của Chi cục thi hành án thành phố Lào Cai.
Về án phí: Áp dụng khoản 2 điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm Bị cáo, có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức số 65/2022/HSST
Số hiệu: | 65/2022/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai - Lào Cai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 05/07/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về