Bản án về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức số 49/2022/HS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 49/2022/HS-PT NGÀY 06/07/2022 VỀ TỘI LÀM GIẢ CON DẤU, TÀI LIỆU CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC

Ngày 06 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 21/2022/TLPT-HS ngày 21 tháng 4 năm 2022 do có kháng cáo của các bị cáo Đoàn Thị H, Nguyễn Thị N đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 08/2022/HS-ST ngày 15 tháng 3 năm 2022 của Tòa án nhân dân quận K, thành phố Hải Phòng.

- Các bị cáo có kháng cáo:

Đoàn Thị H, sinh ngày 19 tháng 4 năm 1995 tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Xóm 8, xã C, huyện T, thành phố Hải Phòng ; nghề nghiệp : Không; trình độ văn hoá: Lơp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đoàn Văn V và bà Phạm Thị P, có chồng là Hoàng Văn T và 02 con, con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Bảo lĩnh”; có mặt.

Nguyễn Thị N, sinh ngày 11 tháng 4 năm 1979 tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Thôn H, xã H, huyện A, thành phố Hải Phòng ; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: Lơp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn B và bà Vũ Thị T, có chồng là Nguyễn Mạnh H và 02 con, con lớn sinh năm 2003, con nhỏ sinh năm 2011; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; có mặt.

Ngoài ra còn có 03 bị cáo không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Nguyễn Mậu D, sinh năm 1996; nơi cư trú: Tổ 3, phường B, quận K, thành phố Hải Phòng, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 07 giờ ngày 21/7/2021, tại trước cửa quán karaoke Newstar số 371 Đường T, phường B, quận K, thành phố Hải Phòng, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận K bắt quả tang Hoàng Văn T đang thực hiện hành vi bán giấy khám sức khỏe cho Nguyễn Mậu D. Tang vật thu giữ gồm:

- 01 con dấu tròn có nội dung “Trung tâm Y tế huyện A”.

- 31 Giấy khám sức khỏe đã đóng dấu sẵn ghi nội dung khám của Trung tâm Y tế huyện A.

- 01 điện thoại di động Samsung màu hồng; 01 xe mô tô biển kiểm soát 16K6 – 5474; 01 chứng minh nhân dân; 01 đăng ký xe mô tô biển kiểm soát 16K6 – 5474 và số tiền 4.544.000 đồng (trong đó có 500.000đ do Nguyễn Mậu D trả tiền mua 200.000đ giấy khám sức khỏe nhưng T chưa trả lại tiền thừa cho Duy).

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận K đã ra Lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở của Hoàng Văn T thu giữ được các đồ vật sau:

- 01 máy scan ảnh EPSON EP-802A;

- 11 con dấu gồm: 01 dấu tròn nội dung “Bệnh viện Hữu Nghị Việt Tiệp”; 01 dấu vuông nội dung “ÂM TÍNH”; 01 dấu vuông nội dung “ĐÃ THU TIỀN; 01 dấu vuông nội dung “X-QUANG TIM PHỔI BÌNH THƯỜNG”; 01 dấu vuông nội dung “HIỆN ĐỦ SỨC KHỎE ĐỂ CÔNG TÁC”; 01 dấu vuông nội dung “GIÁM ĐỐC PGsTs Lê Minh Quang”; 01 dấu vuông nội dung “PHÓ GIÁM ĐỐC BS Bùi Thị Thu Hằng”; 01 dấu vuông nội dung “BSCKII Dương Thị Vân”; 01 dấu vuông nội dung “BSCKII Bùi Ngọc Hải”; 01 dấu vuông nội dung “BSCKII Lưu Văn Mạnh”;

01 dấu vuông nội dung “THS - BS Bùi Tiến Hùng”;

- Số tiền 110.000.000 đồng;

- 15 bản ảnh đã in;

- 01 xe mô tô nhãn hiệu SH 150i mang biển kiểm soát 29P3 – 8686;

- 01 lọ mực màu đỏ nhãn hiệu stamp inlc (đã qua sử dụng);

- 440 tờ giấy A3 in chữ Giấy khám sức khỏe chưa được đóng dấu;

- 03 điện thoại di động không rõ nhãn hiệu đã qua sử dụng;

- 01 túi nilon bên trong có 04 bút chì gỗ, 02 bút xóa, 02 bút bi đen;

- 06 sổ tay chưa sử dụng;

- 09 tập giấy A4;

- 04 tập túi cúc trắng;

- 120 tờ giấy khám sức khỏe;

- 35 ảnh rời.

Tiến hành xác minh tại Trung tâm Y tế huyện A, kết quả như sau: Các mẫu Giấy khám sức khỏe mà Cơ quan Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận K thu giữ được không phải do Trung tâm Y tế huyện A phát hành. Trung tâm Y tế huyện A có Bác sĩ Bùi Thị Thu Hằng, chức vụ Phó Giám đốc; Trung tâm không có các bác sĩ có tên BSCKII Dương Thị Vân, BSCKII Bùi Ngọc Hải, BSCKII Lưu Văn Mạnh, THS - BS Bùi Tiến Hùng. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận K đã tiến hành lấy mẫu con dấu, mẫu chữ ký để phục vụ công tác giám định.

Ngày 21/7/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận K đã ra Quyết định trưng cầu giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng giám định con dấu, chữ ký, chữ viết trên các tài liệu, tang vật thu giữ trong quá trình bắt quả tang Hoàng Văn T. Tại Kết luận giám định số 111/KLGĐ ngày 22/7/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hải Phòng, kết luận:

“Hình dấu tròn có nội dung TRUNG TÂM Y TẾ HUYỆN AN DƯƠNG trên các tài liệu cần giám định so với hình dấu tròn có cùng nội dung trên các tài liệu mẫu so sánh là không phải do cùng một con dấu đóng ra.

Hình dấu tròn có nội dung TRUNG TÂM Y TẾ HUYỆN AN DƯƠNG trên các tài liệu cần giám định so với hình dấu tròn có cùng nội dung được đóng ra từ con dấu tròn màu đỏ thu được từ đối tượng Hoàng Văn T là do cùng một con dấu đóng ra.

Hình dấu chức danh mang tên “Phó Giám đốc BS. Bùi Thị Thu Hằng” trên tài liệu cần giám định so với hình dấu chức danh có cùng nội dung trên tài liệu mẫu so sánh là không phải do cùng một con dấu đóng ra.

Chữ ký mang tên “Phó Giám đốc BS. Bùi Thị Thu Hằng” tại mục Người kết luận trên các tài liệu cần giám định so với chữ ký mang tên “Phó Giám đốc BS. Bùi Thị Thu Hằng” trên các tài liệu mẫu so sánh là không phải chữ ký của cùng một người.

Chữ viết tại các mục in sẵn của phần “III. Khám cận lâm sàng” trên các tài liệu cần giám định so với chữ viết của Hoàng Văn T, sinh năm 1984, GKTT: xóm 8, C, Thủy Nguyên, Hải Phòng trên các tài liệu so sánh là chữ viết của cùng một người”.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ thu thập được, ngày 22 tháng 7 năm 2021 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận K, thành phố Hải Phòng đã khởi tố vụ án; ngày 27/7/2021 khởi tố bị can đối với Hoàng Văn T; ngày 02/8/2021 khởi tố bị can đối với Đoàn Thị H; ngày 09/8/2021 khởi tố bị can đối với Nguyễn Thị N; ngày 27/8/2021 khởi tố bị can đối với Bùi Thị Hải Y và Nguyễn Thị Huyên về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” theo khoản 3 Điều 341Bộ luật Hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo khai nhận như sau:

Hoàng Văn T khai nhận: Do nợ nần, không có việc làm ổn định nên từ khoảng tháng 4/2021, T nhận làm cộng tác viên bán giấy khám sức khỏe cho tài khoản facebook có tên “Mr Bơm”. Sau khi bán giấy khám sức khỏe một thời gian, nhận thấy nhu cầu mua giấy khám sức khỏe trên địa bàn thành phố Hải Phòng rất nhiều nên T đã lên mạng tìm kiếm mua con dấu về để làm giả giấy khám sức khỏe. T tìm và liên hệ với số điện thoại trên trang web, kết bạn zalo (zalo tên Việt) để hỏi mua dấu. Sau đó, T mua 10 con dấu từ zalo tên Việt trên với giá 3.500.000 đồng, gồm có: 01 dấu tròn Trung tâm Y tế huyện A; 01 dấu vuông ÂM TÍNH; 01 dấu vuông ĐÃ THU TIỀN; 01 dấu vuông X-QUANG TIM PHỔI BÌNH THƯỜNG; 01 dấu vuông HIỆN ĐỦ SỨC KHỎE ĐỂ CÔNG TÁC; 01 dấu vuông PHÓ GIÁM ĐỐC BS Bùi Thị Thu Hằng; 01 dấu vuông BSCKII Dương Thị Vân;01 dấu vuông BSCKII Bùi Ngọc Hải; 01 dấu vuông BSCKII Lưu Văn Mạnh; 01 dấu vuông THS-BS Bùi Tiến Hùng. Vài ngày sau khi đặt con dấu, T nhận dấu và thanh toán tiền cho một nam thanh niên giao hàng trực tiếp đến cho T (T không biết là ai). Sau khi có con dấu, T đem tờ phôi Giấy khám sức khỏe mua của tài khoản facebook “Mr Bơm” đi photo ra 100 - 200 bản mỗi lần để dùng dần.

Để làm giả Giấy khám sức khỏe, T ghi thông tin khám lên các trang của giấy khám sức khỏe và đóng dấu bác sĩ lên các tờ giấy khám sức khỏe theo mẫu mua sẵn trước đó rồi tự ký, tự đóng dấu tròn lên. Khi có khách hàng hỏi mua, T yêu cầu khách hàng cung cấp ảnh chụp kích thước 4 x 6 để T in ra sau đó dán ảnh vào Giấy khám sức khỏe giả sau đó đóng dấu lên.

Để bán giấy khám sức khỏe giả, T lập tài khoản facebook “Mai Hoa” và zalo “Nguyên Mai Hoa” (từ số điện thoại 0528721879) để đăng bài tìm khách mua và liên hệ giao dịch. Ngoài ra, T còn lên mạng xã hội tìm cộng tác viên giúp T bán các loại giấy tờ giả. Các cộng tác viên của T gồm có tài khoản facebook “Vân Anh Nguyễn”, tài khoản facebook “Lam Hoang”, tài khoản zalo “Hoa Mai” và tài khoản facebook “N”. Giấy khám sức khỏe T bán cho cộng tác viên với giá từ 120.000 đồng đến 130.000 đồng, cộng tác viên tự thỏa thuận làm giá với khách rồi hưởng phần chênh lệch. Ngoài làm giả giấy khám sức khỏe, T còn làm giả Giấy nghỉ ốm không hưởng bảo hiểm. Giá của Giấy nghỉ ốm không hưởng bảo hiểm thường là 250.000 đồng/tờ đối với thời gian nghỉ dưới 03 ngày; giá 300.000 đồng/tờ đối với thời gian nghỉ từ 3 - 5 ngày. T bán Giấy nghỉ ốm cho cộng tác viên với giá 200.000 đồng/tờ, phần chênh lệch còn lại cho cộng tác viên hưởng. Tiền công trả cho cộng tác viên thì T chuyển khoản thông qua các quán điện thoại ở ven đường trong lúc đi giao cho khách và không còn lưu lại cũng như không nhớ thông tin. Đối với cộng tác viên có tài khoản facebook “Vân Anh Nguyễn” thì T nhờ vợ là Đoàn Thị H chuyển khoản từ tài khoản Ngân hàng TMCP Quân đội (MB Bank) có tên DOAN THI HUONG (có số tài khoản 19041995999) đến tài khoản MB Bank tên NGUYEN THI VAN ANH (có số tài khoản 260015042003).

Đến tháng 6/2021, T thấy mẫu dấu tròn có nội dung “Trung tâm Y tế huyện A” đang dùng là hơi bé nên T lại liên hệ với người có zalo tên Việt đặt dấu mới với kích thước lớn hơn dấu cũ, đồng thời đặt thêm 01 dấu tròn có nội dung “Bệnh viện Hữu nghị Việt Tiệp” với giá 2.000.000 đồng và được người bán khuyến mại thêm 01 dấu vuông “Giám đốc PGs.TS Lê Minh Quang”. Sau vài ngày, T nhận dấu và thanh toán tiền cho một nam thanh niên giao dấu trực tiếp đến cho T. Khi có con dấu “Trung tâm Y tế huyện A” có kích thước to hơn, T chuyển sang dùng con dấu to. Tuy nhiên, khi sử dụng con dấu này được một thời gian thì T làm mất trong một lần đi giao Giấy khám sức khỏe cho khách nên T lại chuyển sang sử dụng con dấu lúc đầu. Đối với con dấu tròn “Bệnh viện Hữu nghị Việt Tiệp” và con dấu “Giám đốc PGs.TS Lê Minh Quang” thì mục đích T mua về là để làm giả Giấy khám sức khỏe nhưng T chưa sử dụng đến các con dấu này. Cho đến khi bị bắt, T đã bán được khoảng hơn 100 tờ Giấy khám sức khỏe giả và khoảng 10 tờ Giấy nghỉ ốm không hưởng bảo hiểm, thu lợi số tiền khoảng hơn 20.000.000 đồng. Tiền thu được, T dùng để chi tiêu cá nhân, và có để lại 10.000.000 đồng tại nhà trọ để phòng thân. Số tiền này đã bị Cơ quan điều tra thu giữ trong quá trình khám xét khẩn cấp.

Việc làm giả giấy khám sức khỏe tại nhà của T có vợ T là Đoàn Thị H biết và tham gia cùng. Thời gian đầu, T in ảnh tại các quán ảnh ven đường, tiện gặp quán nào sẽ in tại quán đó. Một thời gian sau, T và H thống nhất mua máy in về để in ảnh tại nhà. Ngoài ra, H còn giúp T đi giao giấy khám sức khỏe giả cho khách. Những lần đi giao ở gần thì T trả H 30.000 đồng và trả 50.000 đồng cho những lần đi giao ở xa. Tuy nhiên, sau nhiều lần giao cho T thì H có mối khách riêng nên H quyết định không đi giao cho T nữa, H mua lại giấy khám sức khỏe giả từ T với giá 5.000 đồng/tờ để bán lại cho người khác. T đã bán cho H khoảng 50 - 60 tờ giấy khám sức khỏe giả, còn cụ thể H đã bán như thế nào và bán cho ai thì T không biết.

Đoàn Thị H khai nhận: Đoàn Thị H là vợ của Hoàng Văn T. Trong thời gian vợ chồng ở trọ tại 694 Thiên Lôi, Vĩnh Niệm, Lê Chân, Hải Phòng thì cả hai có nói chuyện về việc bán giấy khám sức khỏe giả. Do thiếu tiền chi tiêu cá nhân nên H đồng ý cùng T làm giả giấy khám sức khỏe. Số giấy khám sức khỏe mà H đã bán là khoảng 30 tờ. H sử dụng tài khoản facebook có tên “Bơ đi mà sống” và tài khoản zalo có tên “Huongdoan” để liên hệ bán giấy khám sức khỏe. Trong thời gian đi giao Giấy khám sức khỏe giả, H thấy có Bùi Thị Hải Y, Phạm Thị H mua liên tục nên đặt vấn đề với Yến, Huyên về việc làm cộng tác viên cho H. Mỗi giấy khám sức khỏe giả H sẽ bớt cho Yến, Huyên vài chục nghìn đồng còn Yến, Huyên tự thỏa thuận giá với khách mua để hưởng chênh lệch. Yến và Huyên đều đồng ý làm cộng tác viên cho H. Ngoài ra, trong thời gian trên, H còn được T nhờ chuyển tiền cho cộng tác viên của T. Các lần được T nhờ thì H chuyển tiền từ khoản MB Bank DOAN THI HUONG (có số tài khoản 19041995999) đến tài khoản MB Bank NGUYEN THI VAN ANH (có số tài khoản 260015042003). Ngoài ra T không nhờ H chuyển tiền đến tài khoản nào khác. Xác minh chi tiết giao dịch đối với tài khoản ngân hàng của Đoàn Thị H tại Ngân hàng TMCP Quân đội xác định từ tháng 4/2021: tài khoản MB Bank của H có chuyển tiền đến cho tài khoản của Nguyễn Thị V (sinh năm 2003, hộ khẩu thường trú tại Hà Đỗ, Hồng Phong, An Dương, Hải Phòng).

Nguyễn Thị N khai nhận: Từ tháng 3/2021, N có lấy điện thoại của con gái là Nguyễn Thị V để sử dụng, không cho Vân Anh sử dụng điện thoại để cho con tập trung ôn thi. Đến khoảng tháng 4/2021, N đồng ý làm cộng tác viên bán giấy khám sức khỏe giả cho T. N sử dụng facebook có tên “Vân Anh Nguyễn” (là tài khoản facebook của Vân Anh) và facebook có tên “N” (là tài khoản facebook của N) để liên hệ với facebook “Mai Hoa” của Hoàng Văn T. Nhiệm vụ của N là tìm người mua Giấy khám sức khỏe, Giấy nghỉ ốm. Sau đó N lấy thông tin của người mua và ảnh chân dung 4x6 rồi cung cấp lại cho T để T làm Giấy khám sức khỏe, Giấy nghỉ ốm giả giao cho người mua. Trong thời gian làm việc cho facebook “Mai Hoa”, N đã giới thiệu được khoảng gần 100 người mua Giấy khám sức khỏe, Giấy nghỉ ốm giả và được trả công tổng số tiền là khoảng gần 10.000.000 đồng. Việc sử dụng facebook “Vân Anh Nguyễn” để làm cộng tác viên bán giấy tờ giả cho facebook “Mai Hoa” thì chỉ có một mình N tham gia. Con gái của N (Nguyễn Thị V) chỉ biết N có làm việc online tại nhà, có làm việc cho facebook Mai Hoa còn làm việc gì và cụ thể như thế nào thì N không nói cho con gái biết. Sau khi sự việc xảy ra, N đã tự nguyện giao nộp số tiền thu lời bất chính là 10.000.000 đồng. Lời khai của Nguyễn Thị V có trong hồ sơ vụ án thể hiện: Trong thời gian trước tháng 3, tháng 4/2021, Vân Anh có làm cộng tác viên tuyển nhân sự cho một tài khoản facebook không nhớ tên, công việc của Vân Anh là đăng bài tuyển dụng trên mạng cho các công ty, nếu ai có nhu cầu tìm việc làm thì liên hệ để tuyển dụng. Do thủ tục tuyển nhân sự cần có giấy khám sức khỏe nên Vân Anh có đăng thông tin vào các nhóm để hỏi thủ tục làm giấy khám sức khỏe. Sau đó, Vân Anh nhận được tin nhắn từ một tài khoản facebook có tên “Mai Hoa” giới thiệu là đang làm trong Trung tâm Y tế huyện A có thể đặt hồ sơ Giấy khám sức khỏe để làm nhanh, nếu đồng ý làm cho “Mai Hoa” thì sẽ được hoa hồng. Nhưng lúc đó Vân Anh đang phải ôn thi tốt nghiệp cấp 3 nên mẹ của Vân Anh là Nguyễn Thị N không cho Vân Anh sử dụng điện thoại để tập trung học hành. Do vậy, Vân Anh đã đưa tài khoản facebook “Vân Anh Nguyễn” và tài khoản ngân hàng MB Bank NGUYEN THI VAN ANH, số tài khoản 260015042003 cho Nguyễn Thị N vì N cũng đang muốn có việc làm online tại nhà.

Phạm Thị H khai nhận: Khoảng tháng 5, tháng 6/2021 do có nhu cầu đi xin việc làm nên cần đến Giấy khám sức khỏe, Huyên có lên mạng xã hội facebook để tìm mua. Sau lần đó thì một số bạn bè quen biết có nhờ Huyên mua hộ Giấy khám sức khỏe cho họ. Huyên đặt giúp họ như đã đặt cho bản thân. Tất cả các lần mua đều được Đoàn Thị H giao đến nhà trọ ở 31/41 Khúc Trì, Kiến An, Hải Phòng. Sau đó, Huyên được H đặt vấn đề tuyển làm cộng tác viên bán Giấy khám sức khỏe giả cho H, đồng thời Huyên và H kết bạn zalo với nhau để liên lạc giao dịch giấy khám sức khỏe. Nhiệm vụ của Huyên là tìm người mua Giấy khám sức khỏe. Sau đó Huyên lấy thông tin của người mua và ảnh chân dung 4x6 rồi cung cấp lại cho H để H làm Giấy khám sức khỏe giả giao cho người mua. Huyên đã bán được 11 Giấy khám sức khỏe cho H. Tổng số tiền Huyên đã hưởng lợi từ việc bán giấy khám sức khỏe là 220.000 đồng. Sau khi sự việc xảy ra, Huyên đã tự nguyện giao nộp số tiền 500.000 đồng để khắc phục hậu quả.

Bùi Thị Hải Y khai nhận: Khoảng tháng 3, tháng 4/2021, do có nhu cầu đi xin việc làm cần đến Giấy khám sức khỏe nên Yến lên mạng tìm thông tin những người bán giấy khám sức khỏe và đặt 01 giấy khám sức khỏe của Trung tâm y tế huyện A từ người có tên facebook “Bơ đi mà sống” (là facebook của Đoàn Thị H). Sau vài lần mua Giấy khám sức khỏe từ Đoàn Thị H (qua facebook “Bơ đi mà sống”) như trên thì Yến được H đặt vấn đề tuyển cộng tác viên bán Giấy khám sức khỏe giả cho H. Yến đồng ý làm cộng tác viên cho H. Nhiệm vụ của Yến là tìm người mua Giấy khám sức khỏe, Giấy nghỉ ốm. Sau đó Yến lấy thông tin của người mua và ảnh chân dung 4x6 rồi cung cấp lại cho H để H làm Giấy khám sức khỏe giả giao cho người mua. Tổng cộng, Yến đã bán hộ H được 8 tờ Giấy khám sức khỏe thu lợi hơn 100.000 đồng. Việc thanh toán tiền mua giấy khám sức khỏe, có lúc Yến thanh toán tiền mặt, có lúc Yến chuyển khoản từ tài khoản Ngân hàng TMCP Hàng hải Việt Nam (MSB) có số 02001011984143 (chủ tài khoản BUI THI HAI YEN) đến tài khoản tại Ngân hàng TMCP Công tH Việt Nam (Vietinbank) có số 106871914962 (chủ tài khoản DOAN THI HUONG). Cơ quan điều tra đã xác minh tài khoản ngân hàng của H tại Ngân hàng TMCP Công tH Việt Nam (Vietinbank) từ tháng 4/2021, kết quả: Tài khoản Vietinbank của H có nhận tiền từ tài khoản Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (MSB) của Bùi Thị Hải Y.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 08/2022/HS-ST ngày 15 tháng 3 năm 2022 của Toà án nhân dân quận K, thành phố Hải Phòng đã quyết định: Căn cứ điểm a khoản 3, khoản 4 Điều 341, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 17, Điều 58, khoản 2 Điều 35 của Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Đoàn Thị H 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”, phạt tiền 10.000.000đ (mười triệu đồng) để sung quỹ nhà nước.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị N 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”, phạt tiền 10.000.000đ (mười triệu đồng) để sung quỹ nhà nước.

Ngoài ra bản án còn tuyên xử lý vật chứng, phần án phí, tuyên quyền kháng cáo theo luật định.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 22/3/2022 bị cáo Nguyễn Thị Nkháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo hưởng án treo. Ngày 28/3/2022 bị cáo Đoàn Thị H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại giai đoạn phúc thẩm, bị cáo Đoàn Thị H giao nộp tài liệu về việc bị cáo là cháu ruột của liệt sỹ Đoàn Văn Tức (có xác nhận của UBND thị trấn Tiên Lãng) và hộ gia đình ông Đoàn Văn Vạn và Phạm Thị Phin (bố mẹ ruột của Đoàn Thị H) là hộ cận nghèo (có xác nhận của UBND thị trấn Tiên Lãng). Bị cáo Nguyễn Thị N giao nộp tài liệu thể hiện bố chồng của bị cáo là Nguyễn Mạnh Khiếm tham gia kháng chiến và được Nhà nước tặng Huân cH kháng chiến hạng 3. Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo thừa nhận hành vi của mình là trái pháp luật, giữ nguyên đơn kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hoàn cảnh của các bị cáo để giảm nhẹ hình phạt và cho hưởng án treo. Đơn kháng cáo của bị cáo trong thời hạn luật định nên được Hội đồng xét xử xem xét giải quyết.

* Quan điểm giải quyết vụ án của Kiểm sát viên thể hiện như sau:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dan thành phố Hải Phòng sau khi phân tích hành vi phạm tội của các bị cáo Đoàn Thị H và Nguyễn Thị N, đánh giá tính chất vụ án, mức hình phạt mà cấp sơ thẩm đã tuyên là phù hợp, nên đề nghị không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên bản án hình sựsơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Thị N, Đoàn Thị H trong thời hạn luật định và hợp lệ nên được xem xét, giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.

- Về tội danh:

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Đoàn Thu H, Nguyễn Thị N khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp lời khai tại phiên tòa sơ thẩm và tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại và các tài liệu điều tra khác. Như vậy, có đủ căn cứ xác định: Khoảng từ tháng 4/2021 đến 21/7/2021, Hoàng Văn T có hành vi làm giả hơn 100 tờ Giấy khám sức khỏe, 10 tờ Giấy nghỉ ốm không hưởng bảo hiểm, 12 con dấu giả. Đoàn Thị H có hành vi giúp sức cho Hoàng Văn T trong việc giao giấy khám sức khỏe giả, chuyển tiền và trực tiếp bán khoảng 30 giấy khám sức khỏe giả, thu lợi bất chính khoảng 5.000.000đ; Nguyễn Thị N có hành vi giúp sức cho Hoàng Văn T bán 100 tài liệu giả thu lợi bất chính số tiền 10.000.000 đồng. Hành vi của các bị cáo Đoàn Thị H, Nguyễn Thị N đã vi phạm Điều 341 Bộ luật Hình sự, phạm tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”.Vì vậy, Toà án cấp sơ thẩm đã xét xử các bị cáo Đoàn Thị H và Nguyễn Thị N về tội „Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 341 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Sau khi phạm tội, các bị cáo Đoàn Thị H, Nguyễn Thị N thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Nguyễn Thị N đã tự nguyện nộp lại số tiền thu lợi bất chính 10.000.000đ, bị cáo Đoàn Thị H có bác ruột là Liệt sỹ. Do vậy bị cáo Đoàn Thị H, Nguyễn Thị N được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tại giai đoạn phúc thẩm, bị cáo H và N giao nộp bổ sung tài liệu mới. Bị cáo N có bố chồng là ông Nguyễn Mạnh Khiếm là người có công với Cách mạng, được Nhà nước tặng Huân cH kháng chiến hạng 3, vì vậy bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo H nộp tài liệu về việc bị cáo là cháu ruột của Liệt sỹ Đoàn Văn Tức (có xác nhận của UBND thị trấn Tiên Lãng); bố mẹ ruột thuộc hộ cận nghèo. Tuy nhiên, cấp sơ thẩm đã xét bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ là cháu liệt sỹ theo khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, nên đây không phải là tình tiết mới, còn gia đình hộ cận nghèo không phải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

- Xét kháng cáo của các bị cáo:

Xét kháng cáo về việc xin giảm nhẹ hình phạt: Do hám lợi, cả 2 bị cáo trong vụ án đều cùng bàn bạc, tiếp nhận ý chí của Hoàng Văn T và cùng thực hiện hành vi làm giả các bộ hồ sơ giấy khám sức khoẻ, giấy nghỉ ốm và thu lợi bất chính. Đây là vụ án có đồng phạm thuộc trường hợp giản đơn, các bị cáo trong vụ án cùng thống nhất ý chí, cùng thực hành; bị cáo Đoàn Thị H đã bán khoảng 30 tờ giấy khám sức khoẻ, thu lời bất chính 5.000.000 đồng; bị cáo Nguyễn Thị N đã giúp sức cho T bán khoảng 100 tờ giấy khám sức khoẻ, thu lợi bất chính số tiền 10.000.000đồng, mặc dù H bán số lượng giấy khám sức khỏe ít hơn N, nhưng H là người thực hành tích cực vừa giúp T bán giấy khám sức khỏe, vừa trực tiếp mua lại giấy tờ giả của T để bán kiếm lời, đồng thời H còn giúp T chuyển tiền. N tuy chỉ là người giúp sức cho T để hưởng tiền chênh lệch, nhưng số lượng giấy tờ giả đã bán khoảng 100 giấy tờ, tức là số lượng giấy tờ giả bán gấp trên 16 lần số lượng giấy tờ giả quy định tại khoản 3 Điều 341 của Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo N tuy được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51, nhưng vẫn chưa đủ để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Cấp sơ thẩm đã đánh giá toàn diện tính chất, mức độ, vai trò trong đồng phạm của các bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ mà các bị cáo được hưởng và tuyên phạt các bị cáo một mức án trên mức khởi điểm của khung hình phạt là phù hợp. Do vậy, không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của các bị cáo,cần giữ nguyên bản án sơ thẩm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tại phiên tòa là có căn cứ, đúng pháp luật.

[5] Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên các bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[6] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không xét.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự: Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Đoàn Thị H, Nguyễn Thị N, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Căn cứ điểm a khoản 3, khoản 4 Điều 341, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 17, Điều 58 của Bộ luật Hình sự:

Xử phạt Đoàn Thị H 04 (Bốn) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”, thời hạn tù tính từ ngày bắt đi chấp hành án.

Xử phạt Nguyễn Thị N 04 (Bốn) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”, thời hạn tù tính từ ngày đi chấp hành án.

2. Tiếp tục áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị cáo Nguyễn Thị N, biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh Đoàn Thị H kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm các bị cáo đi chấp hành án phạt tù.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Nguyễn Thị N và Đoàn Thị PH mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm số 08/2022/HS-ST ngày 15 tháng 3 năm 2022 của Toà án nhân dân quận K, thành phố Hải Phòng có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

469
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức số 49/2022/HS-PT

Số hiệu:49/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:06/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về