TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 206/2020/HS-PT NGÀY 06/03/2020 VỀ TỘI LÀM GIẢ CON DẤU, TÀI LIỆU CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC
Ngày 06 tháng 3 năm 2020 tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 32 /2020/TLPT- HS ngày 06 tháng 01 năm 2020 đối với bị cáo Nguyễn Thị Q, Trần Thị Hồng N do có kháng cáo của các bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 330/2019/HS-ST ngày 30 tháng 10 năm 2019 của Tòa án nhân dân quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.
- Bị cáo có kháng cáo:
1- NGUYỄN THỊ Q, sinh năm 1993; giới tính: Nữ; ĐKNKTT và nơi ở: huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Không; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa 11/12; con ông: Nguyễn Đình C và bà Lê Thị E; chồng: Đặng Văn D có 02 con lớn 7 tuổi nhỏ 5 tuổi; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo tại ngoại; có mặt.
2- TRẦN THỊ HỒNG N, sinh năm 1994; giới tính: Nữ; ĐKNKTT và nơi ở: phường Phương Lâm, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình; nghề nghiệp: Tự do; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa 12/12; con ông: Trần Xuân X và bà Trần Thị Thanh A; chồng: Đào Viết L;
tiền án, tiền sự: Không; bị cáo tại ngoại; có mặt.
- Bị cáo không kháng cáo:
NGUYỄN CẨM T, sinh năm 1998; giới tính: Nữ; ĐKNKTT và nơi ở: huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Không; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa 12/12; con ông: Nguyễn Tiến G và bà Đặng Thị Thúy Y; chồng: Đặng Quyết U có 01 con 02 tuổi; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo tại ngoại; vắng mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo Trần Thị Hồng N:
Ông Phan Minh P, luật sư văn phòng luật sư B - Đoàn luật sư thành phố Hà Nội; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 14 giờ 40 phút ngày 08/5/2019, chị Hoàng Thị O là đại lý bảo hiểm của Công ty bảo hiểm Menulife mang theo Giấy ra viện, Phiếu thu đều ghi ngày 24/4/2019 mang tên Trần Thị Hồng N của Bệnh viện Bạch Mai, 01 bảng kê chi phí khám chữa bệnh nội trú, 01 đơn yêu cầu giải quyết quyền lợi bảo hiểm của N đến gặp chị Nguyễn Thị Hương M để nhờ hỗ trợ xin cấp hóa đơn điện tử cho N. Qua xem xét các giấy tờ trên, chị M thấy không đúng mẫu quy định nên đã báo cáo Công an phường Phương Mai.
Tại Công an phường Phương Mai, chị O khai nhận: Chị làm đại lý bảo hiểm cho công ty Menulife và có ký hợp đồng bảo hiểm với Trần Thị Hồng N. Tháng 4/2019 N thông báo với chị là bị sốt virut, đi điều trị tại Bệnh viện Bạch Mai. N nộp lại cho chị 01 giấy ra viện, 01 phiếu thu đều của Bệnh viện Bạch Mai ghi ngày 24/4/2019. Chị đã nộp lên Công ty thì được trả lời là phải có bảng kê chi tiết và hóa đơn đỏ của bệnh viện. Chị đã thông báo lại cho N biết. Ngày 07/5/2019 N đã nộp cho chị bản kê chi phí khám chữa bệnh. Ngày 08/5/2019 chị đã đến bệnh viện Bạch Mai nhờ hỗ trợ cấp hóa đơn điện tử cho N thì bị bệnh viện phát hiện giấy tờ giả.
Ngày 09/5/2019 Trần Thị Hồng N đến Công an phường Phương Mai đầu thú và khai nhận: Khoảng cuối tháng 4/2019 N có nhu cầu tìm mua giấy ra viện, phiếu thu và bảng kê chi phí khám chữa bệnh để làm thủ tục thanh toán tiền bảo hiểm của Công ty Menulife. Thông qua mạng xã hội Facebook, Nhung thấy tài khoản «Nguyễn Thị Hải S» đăng bài nhận cung cấp các giấy tờ trên và để lại số điện thoại. N đã gọi vào số điện thoại có tài khoản Zalo tên là «Cẩm T». N nhắn tin mua 01 phiếu thu, 01 giấy ra viện, 01 bảng kê chi phí khám chữa bệnh của Bệnh viện Bạch Mai nhưng được trả lời là không có bảng kê chi phí khám, chữa bệnh nên N đã hủy việc mua bán. N tiếp tục tìm kiếm trên mạng và mua được các giấy tờ trên của 01 tài khoản Facebook khác. Ngày 25/4/2019 có 01 người đàn ông không quen biết đến giao cho N 01 phiếu thu, 01 giấy ra viện, 01 bảng kê chi phí khám chữa bệnh của Bệnh viện Bạch Mai với giá 280.000 đồng. Sau khi nhận các giấy tờ trên, N liên hệ và đưa cho chị O để làm thủ tục thanh toán tiền bảo hiểm. Do thiếu hóa đơn đỏ nên N nhờ chị O vào Bệnh viện Bạch Mai xin cấp hóa đơn thì sự việc bị phát hiện.
Trên cơ sở tài liệu thu thập được, cơ quan điều tra Công an quận Đống Đa tiến hành giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Nguyễn Thị Q và đã thu giữ của Q:
- 01 con dấu in chữ «Đã thu tiền»;
- 01 con dấu in chữ «Âm tính»;
- 01 con dấu in chữ «Bình thường»;
- 02 con dấu hình tròn in chữ «Bệnh viện Bạch Mai»;
- 01 con dấu in chữ «Đủ sức khỏe học tập, công tác»;
- 01 con dấu in chữ «Đủ sức khỏe lái xe»;
- 01 con dấu in chữ «Hình tim phổi bình thường».
Ngày 09/5/2019 Nguyễn Cẩm T đến cơ quan Công an đầu thú và giao nộp 01 chiếc điện thoại.
Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Thị Q và Nguyễn Cẩm T khai nhận: Khoảng tháng 2/2019, Q lên mạng xã hội đặt mua bộ dấu giả của Bệnh viện Bạch Mai với giá 8.000.000 đồng. Q lên mạng Internet lấy các mẫu Giấy chứng nhận sức khỏe, Giấy khám sức khỏe, Giấy vào viện, Giấy ra viện, phiếu thu của Bệnh viện Bạch Mai. Sau đó Q bảo T đăng bài trên mạng xã hội với nội dung «Ai có nhu cầu mua giấy khám sức khỏe thì nhắn tin hoặc gọi điện vào số điện thoại 0959692736». Giá bán Giấy chứng nhận sức khỏe giấy A4 là 70.000 đồng, Giấy khám sức khỏe loại A3 không dán ảnh là 100.000 đồng, Giấy khám sức khỏe loại A3 có dán ảnh là 150.000 đồng, Giấy ra viện là 180.000 đồng, Giấy vào viện là 180.000 đồng, Phiếu thu là 30.000 đồng. Q sẽ trả cho T 30% trên tổng số tiền bán được. T là người trực tiếp liên hệ với người mua, lấy số điện thoại, địa chỉ và số lượng giấy cần mua của người mua. Sau đó T chuyển lại thông tín cho Q làm, sau đó Q sẽ gửi đến người mua thông qua người ship hàng. V đồng ý và đã lập Facebook lấy tên «Nguyễn Thị Hải S» và đăng bài trên đó. Ngoài ra T còn đăng ký số điện thoại của mình trên tài khoản Zalo lấy tên «Cẩm T».
Trong khoảng thời gian từ tháng 02/2019 đến ngày 08/5/2019 V và Q đã bán cho 10 người mua 18 Giấy chứng nhận sức khỏe, 01 giấy ra viện, 01 phiếu thu của Bệnh viện Bạch Mai, thu được số tiền 1.500.000 đồng.
Tại bản Kết luận giám định số 3703/KLGĐ-PC09(Đ4) ngày 13/6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hà Nội kết luận:
- Hình dấu tròn «Bệnh viện Bạch Mai» trên các mẫu cần giám định với dấu tròn «Bệnh viện Bạch Mai» trên các mẫu so sánh không phải do cùng một con dấu đóng ra.
- Hình dấu tròn «Bệnh viện Bạch Mai» trên các mẫu cần giám định với dấu có nội dung «Bệnh viện Bạch Mai» được đóng ra từ con dấu có kích thước đường tròn ngoài 32mm.
- Hình dấu tròn «Bệnh viện Bạch Mai» trên các mẫu cần giám định là hình dấu giả.
- Chữ ký đứng tên Nguyễn Ngọc B trên mẫu cần giám định với chữ ký đứng tên Nguyễn Ngọc B trên mẫu so sánh không phải chữ do cùng một người ký ra.
- Chữ ký đứng tên Nguyễn Thị Bích K trên mẫu cần giám định với chữ ký đứng tên Nguyễn Thị Bích K trên mẫu so sánh không phải chữ do cùng một người ký ra.
- Không đủ kết luận chữ viết nội dung và chữ ký trên các mẫu cần giám định với chữ viết, chữ ký xác nhận đứng tên Nguyễn Thị Q là chữ do cùng một người viết và ký hay không.
Tại bản Kết luận giám định số 4488/KLGĐ-PC09(Đ4) ngày 17/7/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hà Nội kết luận:
- Hình dấu chức danh «PGĐ.CN Nguyễn Ngọc B» trên mẫu cần giám định với dấu chức danh «PHÓ GIÁM ĐỐC BỆNH VIỆN Nguyễn Ngọc B» trên mẫu so sánh không phải do cùng 01 con dấu đóng ra. Hình dấu cần giám định được tạo ra bằng phương pháp in mầu kỹ thuật số.
- Chữ ký, chữ viết trên dòng Trần Thị Hồng N (dưới chữ ký) trên các mẫu cần giám định; Chữ viết phần nội dung (trừ phần khoanh bằng mực đỏ) trên các mẫu cần giám định với chữ ký, chữ viết đứng tên Trần Thị Hồng N trên các mẫu so sánh là chữ do cùng một người ký và viết ra.
Với nội dung trên, tại bản án hình sự sơ thẩm số 330/2019/HSST ngày 30/10/2019 Tòa án nhân dân quận Đống Đa, thành phố Hà Nội đã quyết định:
Tuyên bố: Nguyễn Thị Q, Nguyễn Cẩm T phạm tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức”. Trần Thị Hồng N phạm tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” - Áp dụng: Điểm a khoản 3 điều 341; điểm s,n khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Nguyễn Thị Q 42 (bốn hai)tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 09/5/2019 đến ngày 18/5/2019.
Xử phạt: Nguyễn Cẩm T 36 (ba sáu) tháng tù. Hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.
- Áp dụng: Điểm c khoản 2 điều 341; điểm s khoản 1 khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Trần Thị Hồng N 24(hai bốn) tháng tù. Hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.
Ngoài ra bản án còn quyết định buộc truy nộp tiền thu lời bất chính, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 12/11/2019 bị cáo Nguyễn Thị Q và Trần Thị Hồng N có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Các bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, mong hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt và cho các bị cáo được hưởng án treo vì bị cáo Q hiện đang mang thai sắp đến ngày sinh, bị cáo N còn ít tuổi hoàn cảnh khó khăn.
Đại diện viện kiểm sát thành phố Hà Nội có quan điểm:
Tòa án sơ thẩm đã xét xử các bị cáo Nguyễn Thị Q, Nguyễn Cẩm T về tội làm giả con dấu tài liệu của cơ quan, tổ chức theo điểm a khoản 3 điều 341 Bộ luật hình sự và Trần Thị Hồng N theo điểm a khoản 2 điều 341 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Tòa án sơ thẩm đã đánh giá tính chất hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ để quyết định hình phạt là phù hợp. Tại phiên tòa phúc thẩm không có tình tiết gì mới nên đề nghị không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo giữ nguyên án sơ thẩm.
Luật sư bào chữa cho bị cáo Trần Thị Hồng N có quan điểm:
Không có ý kiến gì về tội danh, đề nghị hội đồng xét xử xem xét ngay khi bị phát hiện bị cáo N đã thành khẩn, hợp tác với cơ quan điều tra để kết thúc nhanh chóng vụ án, hành vi của bị cáo chưa gây thiệt hại. Tính chất hành vi xuất phát từ việc nhận thức pháp luật còn hạn chế, địa phương xác nhận bị cáo là công dân tốt, chấp hành tốt chính sách của địa phương không vi phạm pháp luật. Hình phạt mà tòa sơ thẩm quyết định đối với bị cáo là quá nghiêm khắc. Đề nghị hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng thêm cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự, điều 54, điều 65 Bộ luật hình sự giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Về hình thức: Kháng cáo của các bị cáo trong thời hạn quy định của pháp luật nên được chấp nhận để xem xét theo trình tự phúc thẩm.
Về nội dung:
Căn cứ lời khai của các bị cáo phù hợp với biên bản thu giữ vật chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ, tòa án nhân dân quận Đống Đa, thành phố Hà Nội đã xét xử các bị cáo Nguyễn Thị Q, Nguyễn Cẩm T về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” theo điểm a khoản 3 điều 341Bộ luật hình sự và bị cáo Trần Thị Hồng N tội “Làm giả tài liệu cơ quan, tổ chức” theo điểm a khoản 2 điều 341 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
Xét yêu cầu kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Q và Trần Thị Hồng N hội đồng xét xử thấy rằng:
Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính, đến hoạt động bình thường của các cơ quan, tổ chức gây mất trật tự trị an xã hội, cần phải xử lý nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm.
Tòa án sơ thẩm đã xác định đúng các tình tiết giảm nhẹ đối với các bị cáo. Tuy nhiên trong vụ án này bị cáo Q và T đã tự khai ra số lượng giấy tờ giả mà các bị cáo đã làm và bán được vì vậy cần áp dụng cho các bị cáo Q và T tình tiết giảm nhẹ tự thú theo điểm r khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo Q là người có nhân thân tốt, do hoàn cảnh khó khăn nhất thời phạm tội, Q và T thu lời bất chính không lớn, bị cáo Q có nhiều tình tiết giảm nhẹ, hình phạt 42 tháng tù mà tòa án sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo là có phần nghiêm khắc. Bị cáo có địa chỉ rõ ràng, lần đầu phạm tội nên hội đồng xét xử thấy không cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội mà cho bị cáo cải tạo ngoài xã hội cũng đủ tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo. Vì vậy chấp nhận kháng cáo của bị cáo Q, sửa bản án sơ thẩm giảm hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.
Đối với bị cáo Trần Thị Hồng N, luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị áp dụng thêm cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự là phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn, tuy nhiên hậu quả thiệt hại do hành vi làm giả tài liệu của cơ quan tổ chức không phải là dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan của tội phạm. Vì vậy đề nghị của luật sư không có căn cứ chấp nhận. Căn cứ vào tính chất hành vi phạm tội, thái độ khai báo thành khẩn, tòa án sơ thẩm đã quyết định hình phạt 24 tháng tù đối với bị cáo là phù hợp. Tuy nhiên bị cáo có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội, chưa được hưởng lợi, có địa chỉ rõ ràng nên không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội cũng đủ tác dụng cải tạo và giáo dục bị cáo.
Vì vậy chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Thị Hồng N, sửa bản án sơ thẩm giữ nguyên hình phạt nhưng cho bị cáo được hưởng án treo.
Đối với bị cáo Nguyễn Cẩm T tuy không kháng cáo song xét tính chất hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo và nhiều tình tiết giảm nhẹ được áp dụng tại cấp sơ thẩm và phúc thẩm , có đủ căn cứ để được hưởng án treo nên hội đồng xét xử thấy cần thiết sửa phần quyết định của bản án đối với bị cáo T đảm bảo tính công bằng của pháp luật, áp dụng điều 65 Bộ luật hình sự giảm hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.
Bị cáo Q và N được chấp nhận kháng cáo nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 điều 355, điểm e khoản 1 điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH/14 ngày 30/12/2016 về án lệ phí tòa án.
- Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Q và Trần Thị Hồng N. Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 330/2019/HSST ngày 30/10/2019 của Tòa án nhân dân quận Đống Đa, thành phố Hà Nội về phần hình phạt đối với Nguyễn Thị Q, Trần Thị Hồng N và Nguyễn Cẩm T.
+ Áp dụng: Điểm a khoản 3 điều 341; điểm s,n,r khoản 1 khoản 2 điều 51; điều 65 Bộ luật hình sự.
Xử phạt : Nguyễn Thị Q 36(ba sáu) tháng tù về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 60(sáu mươi) tháng kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.
Giao bị cáo về ủy ban nhân dân xã Vân Nam, huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
+ Áp dụng: Điểm c khoản 2 điều 341; điểm s khoản 1 khoản 2 điều 51; điều 65 Bộ luật hình sự.
Xử phạt : Trần Thị Hồng N 24(hai bốn) tháng tù về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 48(bốn tám) tháng kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.
Giao bị cáo về ủy ban nhân dân phường Phương Lâm, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
+ Áp dụng: Điểm a khoản 3 điều 341; điểm s,n,r khoản 1 khoản 2 điều 51; điều 65 Bộ luật hình sự.
Xử phạt : Nguyễn Cẩm T 30(ba mươi) tháng tù về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 60(sáu mươi) tháng kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.
Giao bị cáo về ủy ban nhân dân xã Vân Nam, huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.
- Bị cáo Nguyễn Thị Q và Trần Thị Hồng N không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
- Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức số 206/2020/HS-PT
Số hiệu: | 206/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 06/03/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về