Bản án về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức số 103/2021/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỐNG NHẤT, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 103/2021/HSST NGÀY 17/09/2021 VỀ TỘI LÀM GIẢ CON DẤU, TÀI LIỆU CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC

 Ngày 17 tháng 9 năm 2021, tại Hội trường Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai, Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục rút gọn vụ án hình sự thụ lý số: 140/2021/HSST ngày 01 tháng 9 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 121/2021/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị Bích Ngọc Phương L, (theo bị cáo trình bày tại phiên tòa bị cáo không có tên gọi khác), sinh năm 1984 tại Đồng Nai. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: 021/A1 ấp L, xã Q, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai. Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Công giáo; Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Nguyễn Văn H (đã chết) và bà Nguyễn Thị Q, sinh năm: 1945. Có chồng Trần Hưng Đ, sinh năm: 1973; Có 04 người con, lớn nhất sinh năm: 2008, nhỏ nhất sinh năm: 2019.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 23/8/2021 cho đến nay (bị cáo mặt tại phiên tòa) +/ Người làm chứng:

Anh Nguyễn Gia H, sinh năm: 2003 Nơi cư trú: đội 4 ấp V, xã G, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai.

(Anh H vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

1 Thực hiện Chỉ thị 16/CT-TTg ngày 31/3/2020 của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện các biện pháp cấp bách phòng, chống dịch Covid-19 và Chỉ thị số 15/CT-UBND ngày 08/7/2021 của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Đồng Nai về quyết liệt thực hiện các biện pháp cấp bách phòng, chống dịch Covid-19 trên địa bàn tỉnh. Ngày 15/8/2021 Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai đã ban hành Quyết định số 9723/UBND-KGVX về việc thực hiện nghiêm các biện pháp giãn cách xã hội trong công tác phòng, chống dịch Covid 19 trên phạm vi toàn tỉnh sẽ tiếp tục áp dụng giãn cách xã hội từ 00 giờ 00 ngày 17/8/2021 đến hết ngày 31/8/2021. Thực hiện theo quy định trên, ngày 16/7/2021 Ủy ban nhân dân xã G, huyện Thống Nhất đã ban hành Quyết định số 439/QĐ-UBND về việc thành lập 02 tổ công tác tuần tra, xử lý vi phạm trong công tác phòng, chống dịch Covid-19 trên địa bàn xã (trong đó, Tổ 1 gồm các đồng chí Nguyễn Vũ Nhật A - Tổ trưởng; đồng chí Trần Ngọc Thanh Ph - Tổ phó và đồng chí Trần Đ - Thành viên) và các tổ công tác có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch, tổ chức kiểm tra việc chấp hành các biện pháp phòng, chống dịch bệnh Covid-19 trên địa bàn xã và lập biên bản các trường hợp vi phạm chuyển Ủy ban nhân dân xã xử lý theo quy định của pháp luật. Ngày 01/8/2021, Ủy ban nhân dân xã G ban hành Thông báo số 29/TB –UBND ngày 01/8/2021 về việc sử dụng các loại thẻ phục vụ công tác phòng, chống dịch bệnh Covid-19 trên địa bàn xã G. Theo đó, quy định các lực lượng dân quân, tình nguyện viên trực tại các chốt kiểm soát sử dụng thẻ “Tổ công tác phòng, chống dịch Covid-19” do Ủy ban nhân dân xã cấp ngày 01/8/2021; đối với lực lượng phục vụ hậu cần gồm: người đưa cơm cho các chốt, đội ba gác máy, đội SOS tình nguyện phục vụ công tác phòng, chống dịch Covid-19 sử dụng thẻ “Tổ phục vụ phòng, chống dịch Covid-19” do Ủy ban nhân dân xã chấp ngày 01/8/2021, còn riêng các lực lượng khác theo thẻ theo quy định của cán bộ công chức, của ngành đã được cấp và quy định các loại thẻ phục vụ đã cấp trước đây không còn hiệu lực sử dụng từ ngày 01/8/2021. (Các bút lục từ 69-74).

Ngày 21/8/2021, đồng chí Nguyễn Vũ Nhật A và đồng chí Trần Ngọc Thanh Ph thực hiện theo kế hoạch, nhiệm vụ được phân công và đi tuần tra trên tuyến đường Võ Dõng 1 – Lạc Sơn, thuộc ấp V, xã G, huyện Thống Nhất thì phát hiện bị cáo Nguyễn Thị Bích Ngọc Phương L đang điều khiển xe môtô biển số 59C2-466.04 lưu thông trên đường thì tổ công tác yêu cầu dừng xe, kiểm tra giấy tờ khi đi ra đường, bị cáo L xuất trình 01 thẻ phục vụ công tác phòng chống dịch đã làm giả cho tổ công tác. Sau khi kiểm tra thẻ thì tổ công tác phát hiện thẻ này không đúng như thẻ được Ủy ban nhân dân xã G cấp lưu hành nên tổ công tác đã báo Công an xã G tiến hành lập biên bản quả tang, thu giữ cùng tang vật (Bút lục 15, 16).

Quá trình điều tra bị cáo Nguyễn Thị Bích Ngọc Phương L đã khai nhận do có nhu cầu đi ra ngoài đường nên bị cáo L nảy sinh ý định làm giả thẻ phục vụ công tác phòng chống dịch do Ủy ban nhân dân xã G cấp cho người dân để được đi qua các chốt kiểm dịch.

Ngày 20/8/2021, bị cáo L chuẩn bị các công cụ gồm: 01 bìa sổ màu xanh (màu giống như thẻ do Ủy ban nhân dân xã G cấp), 01 kéo cắt giấy, 01 bút bi đen, 01 thước kẻ, 01 lọ sơn móng tay màu đỏ và 01 nắp chai nước suối để làm giả thẻ do Ủy ban nhân dân xã G cấp. Sau khi chuẩn bị xong dụng cụ, dựa vào mẫu thẻ phục vụ công tác phòng chống dịch do Ủy ban nhân dân xã G cấp trước đây (do trước đây bị cáo có đi làm tình nguyện viên được cấp nhưng đã hết hạn), bị cáo L dùng kéo cắt 01 bìa sổ màu xanh thành 01 mảnh giấy hình chữ nhật, kích thước 9,2x5,2cm, rồi dùng bút bi đen, dùng thước kẻ khung, gạch ngang và tự viết các dòng chữ “UBND xã G”, “Ban chỉ đạo phòng chống Covid-19”, “Thẻ phục vụ công tác phòng chống dịch” trên tờ giấy này. Sau đó, bị cáo L dùng lọ sơn móng tay màu đỏ, bôi lên nắp chai nước suối, rồi dùng nắp chai này ấn vào bên góc trái của tờ giấy trên để thể hiện đây là dấu của Ủy ban nhân dân xã G. Sau khi làm xong bị cáo L bỏ giấy thừa, nắp chai, sơn móng tay vào sọt rác, còn bút bi, thước kẻ, kéo để ở nhà. Khi bị cáo L sử dụng giấy này để đi ra đường thì bị bắt quả tang cùng tang vật.

Tại cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thống Nhất, bị cáo Nguyễn Thị Bích Ngọc Phương L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên. (Bút lục từ số 45- 52).

Căn cứ Kết luận giám định số 1709/KLGĐ-PC09 ngày 22/8/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đồng Nai, xác định: 01 thẻ phục vụ công tác phòng chống dịch thu giữ ở trên là giả. (Bút lục số 23).

Tại Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn số: 88/QĐ-VKSTN ngày 31/8/2021 Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất truy tố bị cáo Nguyễn Thị Bích Ngọc Phương L phạm tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” theo quy định tại khoản 1 Điều 341 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất giữ nguyên quan điểm về nội dung vụ án, tội danh, khung hình phạt đã truy tố bị cáo. Về tình tiết tăng nặng bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017); về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quá trình điều tra, truy tố bị cáo thành khẩn khai báo; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi và là lao động chính trong gia đình.

Từ những căn cứ trên, áp dụng khoản 1, Điều 341; điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 36 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Bích Ngọc Phương L từ 12 (mười hai) tháng cải tạo không giam giữ đến 15 (mười lăm) tháng cải tạo không giam giữ và miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo.

+/ Vật chứng vụ án:

01 Thẻ phục vụ công tác phòng chống dịch, đây là thẻ mà bị cáo làm giả để làm giấy đi đường đề nghị tiếp tục lưu hồ sơ vụ án.

01 cây bút bi màu đen, 01 cái kéo, 01 cái thước, 01 thẻ phục vụ công tác phòng tránh dịch cũ, bị rách (đã hết hạn), 01 dây đeo bảng tên. Là công cụ bị cáo Nguyễn Thị Bích Ngọc Phương L sử dụng để làm giả Thẻ phục vụ công tác phòng chống dịch do không có giá trị nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 bìa sổ màu xanh còn lại sau khi cắt, 01 lọ sơn móng tay màu đỏ và 01 nắp chai nước suối, bị cáo đã vứt bỏ tại thùng rác gần nhà ở ấp L, xã Q, huyện Thống Nhất. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thống Nhất đã thông báo truy tìm vật chứng nhưng không có kết quả nên không xử lý.

Đối với xe môtô biển số 59C2-466.04 là tài sản của vợ chồng bị cáo, do không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thống Nhất đã trả lại cho chủ sở hữu.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thị Bích Ngọc Phương L đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình, bị cáo không có ý kiến về tội danh, khung hình phạt, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát vừa đề nghị đối với bị cáo và không có ý kiến, tranh luận gì khác.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật, do bị cáo có hoàn cảnh khó khăn có chồng, con bị bệnh tâm thần và đang nuôi con nhỏ nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Thống Nhất, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Thị Bích Ngọc Phương L đã thừa nhận hành vi phạm tội, lời khai của bị cáo phù hợp với các chứng cứ có tại hồ sơ, đủ cơ sở kết luận:

[2.1] Trong thời gian thực hiện các biện pháp giãn cách xã hội trong công tác phòng, chống dịch Covid 19 trên phạm vi toàn tỉnh áp dụng từ 00 giờ 00 ngày 17/8/2021 đến hết ngày 31/8/2021 theo quy định của Chính phủ và các cơ quan ban ngành. Nhằm phục vụ cho nhu cầu đi lại của mình, bị cáo Nguyễn Thị Bích Ngọc Phương L đã thực hiện hành vi làm giả thẻ phục vụ công tác phòng chống dịch do Ủy ban nhân dân xã G cấp cho người dân để được đi qua các chốt kiểm dịch. Ngày 20/8/2021, bị cáo L chuẩn bị các công cụ gồm: 01 bìa sổ màu xanh (màu giống như thẻ do Ủy ban nhân dân xã G cấp), 01 kéo cắt giấy, 01 bút bi đen, 01 thước kẻ, 01 lọ sơn móng tay màu đỏ và 01 nắp chai nước suối để làm giả thẻ do Ủy ban nhân dân xã G cấp. Sau khi chuẩn bị xong dụng cụ, dựa vào mẫu 01 thẻ phục vụ công tác phòng chống dịch do Ủy ban nhân dân xã G cấp trước đây (do trước đây bị cáo có đi làm tình nguyện viên được cấp nhưng đã hết hạn), bị cáo L dùng kéo cắt 01 bìa sổ màu xanh thành 01 mảnh giấy hình chữ nhật, kích thước 9,2x5,2cm, rồi dùng bút bi đen, dùng thước kẻ khung, gạch ngang và tự viết các dòng chữ “UBND xã G”, “Ban chỉ đạo phòng chống Covid-19”, “Thẻ phục vụ công tác phòng chống dịch” trên tờ giấy này. Sau đó, bị cáo L dùng lọ sơn móng tay màu đỏ, bôi lên nắp chai nước suối, rồi dùng nắp chai này ấn vào bên góc trái của tờ giấy trên để thể hiện đây là dấu của Ủy ban nhân dân xã G. Ngày 21/8/2021 bị cáo đi ra đường khi bị tổ công tác xã G dừng xe kiểm tra thì bị cáo đã xuất trình thẻ làm giả trên. Tại bản Kết luận giám định số 1709/KLGĐ-PC09 ngày 22/8/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đồng Nai kết luận 01 thẻ phục vụ công tác phòng chống dịch Covid 19 thu giữ do bị cáo L làm là giả

[2.2] Hành vi như trên của bị cáo đã bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất truy tố về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” theo quy định tại khoản 1, Điều 341 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)

[3.1] Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Hành vi của bị cáo đã làm ảnh hưởng đến công tác phòng chống dịch bệnh Covid 19 đối với địa phương và trên địa bàn tỉnh trong thời gian hiện nay. Tuy nhiên, hành vi trên của bị cáo chưa gây hậu quả nghiêm trọng, chưa làm phát tán dịch bệnh. Hiện bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, có chồng và con đang bị bệnh tâm thần, bị cáo đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi và là lao động duy nhất trong gia đình. Đây là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) nên cần áp dụng để xem xét khi lượng hình cho bị cáo.

[3.2] Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú ổn định, rõ ràng nên không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với bị cáo là đủ răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Vật chứng vụ án:

[4.1] 01 Thẻ phục vụ công tác phòng chống dịch do bị cáo làm giả để làm giấy đi đường. Đây là tài liệu, chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo nên cần tiếp tục lưu hồ sơ vụ án.

[4.2] 01 cây bút bi màu đen, 01 cái kéo, 01 cái thước, 01 thẻ phục vụ công tác phòng tránh dịch cũ, bị rách (đã hết hạn), 01 dây đeo bảng tên. Là công cụ bị cáo Nguyễn Thị Bích Ngọc Phương L sử dụng để làm giả Thẻ phục vụ công tác phòng chống dịch. Do không có giá trị cần tịch thu tiêu hủy.

[4.3] Đối với 01 bìa sổ màu xanh còn lại sau khi cắt, 01 lọ sơn móng tay màu đỏ và 01 nắp chai nước suối, bị cáo đã vứt bỏ tại thùng rác gần nhà ở ấp L, xã Q, huyện Thống Nhất. Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Thống Nhất đã thông báo truy tìm vật chứng nhưng không có kết quả nên không xử lý.

[4.4] Đối với xe môtô biển số 59C2-466.04 là tài sản của vợ chồng Nguyễn Thị Bích Ngọc Phương L và ông Trần Hưng Đ, do không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thống Nhất đã trả lại cho chủ sở hữu. Chủ sở hữu đã nhận lại tài sản và không có ý kiến hay yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ khoản 1 Điều 341; điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 36 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[2] Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thị Bích Ngọc Phương L phạm tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”.

[3] Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị Bích Ngọc Phương L 01 (một) năm cải tạo không giam giữ.

[3.1] Thời gian chấp hành hình phạt của bị cáo Nguyễn Thị Bích Ngọc Phương L được tính kể từ ngày Ủy ban nhân dân xã Q, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai nhận được bản án và quyết định thi hành án.

[3.2] Giao cho Ủy ban nhân dân xã Q, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai giám sát, giáo dục bị cáo Nguyễn Thị Bích Ngọc Phương L trong thời gian cải tạo không giam giữ.

[3.3] Do bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, chồng con bị bệnh tâm thần, bị cáo đang nuôi con nhỏ và là lao động duy nhất trong gia đình nên miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo Nguyễn Thị Bích Ngọc Phương L.

[4] Về xử lý vật chứng:

[4.1] Áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

[4.2] Tịch thu tiêu hủy 01 cây bút bi màu đen, 01 cái kéo, 01 cái thước, 01 dây đeo bảng tên và 01 thẻ phục vụ công tác phòng tránh dịch cũ, bị rách (đã hết hạn) (theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 01/9/2021 và ngày 15/9/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Thống Nhất)

[5] Về án phí:

[5.1] Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

[5.2] Buộc bị cáo Nguyễn Thị Bích Ngọc Phương L phải nộp 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

[6] Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

486
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức số 103/2021/HSST

Số hiệu:103/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thống Nhất - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về