Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 867/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 867/2023/HS-PT NGÀY 20/11/2023 VỀ TỘI LM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 11 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau, xét xử phúc thẩm lưu động công khai vụ án hình sự thụ lý số 583/2023/TLPT-HS ngày 07 tháng 8 năm 2023 đối với bị cáo Trương Trung T do có kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau và kháng cáo của người bị hại Võ Đăng K đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 22/2023/HS-ST ngày 25/4/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau.

- Bị cáo có kháng cáo, bị kháng cáo, bị kháng nghị:

Họ và tên: Trương Trung T, sinh năm 1975 tại Cà Mau.

Nơi cư trú: Ấp Bà Đ, xã Lý Văn L, thành phố Cà M, tỉnh Cà Mau; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; nghề nghiệp: Kinh doanh; trình độ học vấn: 12/12; con ông Trương Văn Ch, con bà Lâm Thị Ng; vợ: Quách Kiều D, con: có 02 người; tiền án, tiền sự: Không; Bắt tạm giam từ ngày 30 tháng 9 năm 2022 đến nay; Bị cáo có mặt.

- Bị hại: Ông Võ Đăng Kh, sinh năm 1977; Nơi cư trú: Số 450, đường Lý Thường K, Khóm 2, Phường 6, thành phố Cà M, tỉnh Cà Mau (có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Ông Mạc Thế K, sinh năm 1972; Nơi cư trú: Số 7, LK17, đường Mậu Th, Khóm 6, Phường 9, Thành phố Cà M, tỉnh Cà Mau (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Năm 2017, Trương Trung T thành lập Công ty trách nhiệm hữu hạn xuất nhập khẩu thủy sản Trung T (gọi tắt là Công ty Trung T ), được Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Cà Mau cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp ngày 15/6/2017, do Trương Trung T là người đại diện theo pháp luật, trụ sở tại ấp Kinh Tắc, xã Hàm Rồng, huyện Năm Căn, tỉnh Cà Mau. Công ty Trung T  mở 02 tài khoản: Tài khoản số 750020101X tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - Chi nhánh tỉnh Cà Mau (gọi tắt là Ngân hàng A) để sử dụng giao dịch Việt Nam đồng; Tài khoản số 164554X tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Việt Nam Thịnh Vượng - Chi nhánh tỉnh Cà Mau (gọi tắt là Ngân hàng VP) để sử dụng giao dịch ngoại tệ. Công ty Trung T  hoạt động chủ yếu gia công tôm, cá cho các công ty khác; Song, hoạt động kinh doanh kém hiệu quả, mất cân đối về tài chính, nhưng T muốn duy trì sự hoạt động công ty để có điều kiện vay vốn ngân hàng.

Cùng thời điểm này, Ông Võ Đăng Kh có nhiều đơn đặt hàng xuất khẩu cá ra nước ngoài (Hoa Kỳ), nhưng Ông Kh không có đăng ký kinh doanh, không đủ tư cách pháp nhân để thực hiện giao dịch và không có nhà máy để gia công làm ra sản phẩm. Do là bạn bè, quen biết và có quan hệ kinh doanh nên Ông Kh và T thỏa T Ông Kh sử dụng pháp nhân Công ty Trung T  để thực hiện việc xuất khẩu cá. Theo thỏa T, T cho Ông Kh sử dụng danh nghĩa Công ty Trung T để ký kết hợp đồng xuất khẩu bán hàng thủy sản ra nước ngoài, Ông Kh chịu mọi chi phí phát sinh cho đến khi xuất hàng và nhận tiền về tài khoản của Công ty Trung T. Bên mua hàng của Ông Kh sẽ chuyển trả tiền vào tài khoản số 164554X của Công ty Trung T , khi nhận được tiền T thông báo cho Ông Kh biết và T ký séc, nhận tiền đưa lại cho Ông Kh. Ông Kh sẽ hỗ trợ cho T thanh toán tiền thuê nhà xưởng. Mặc dù T không được hưởng lợi ích gì từ việc Ông Kh ký hợp đồng xuất khẩu bán hàng ra nước ngoài nhưng Công ty Trung T duy trì được hoạt động kinh doanh để T lợi trong việc vay vốn ngân hàng.

Sau khi thỏa T, Ông Kh đã thông qua Công ty Trung T ký khoảng 10 hợp đồng xuất bán hàng cho khách hàng nước ngoài. Tất cả những lần này, khi khách hàng chuyển khoản thanh toán thì T đều thông báo cho Ông Kh biết và ký séc, nhận tiền đưa lại Ông Kh hoặc T ký séc đưa Ông Kh để trực tiếp rút tiền như đã thỏa T.

Ngày 14/12/2018, ông Trương Minh Th (là người làm nghề kinh doanh tại Thành phố Hồ Chí Minh) có đơn hàng cung cấp 01 container cá đông lạnh cho Công ty Crab H Trading Corporation tại Hoa Kỳ (gọi tắt Công ty Crab H), ông T giới thiệu cho Ông Kh thực hiện đơn đặt hàng này. Ông Kh tiếp tục lấy danh nghĩa Công ty Trung T để thực hiện. Ông Kh và T thống nhất giao cho ông T thay mặt Công ty Trung T ký hợp đồng bán hàng số TT#10- CHT với Công ty Crab H, nội dung: Công ty Trung T xuất khẩu bán cho Công ty Crab H lô cá đông lạnh loại sản phẩm: Cá trê vàng, cá he đỏ, cá nục, ước tính là 67.800 USD (Cộng/trừ cho phép 10%).

Ngày 16/01/2019, Ông Kh hoàn thành đơn hàng và xuất bán hàng cho Công ty Crab H tại Tân Cảng Sài Gòn thuộc cảng Cát Lái - Thành phố Hồ Chí Minh.

Ngày 09/3/2019, Công ty Crab H chuyển 68,706 USD vào tài khoản 164554X của Công ty Trung T để thanh toán hợp đồng số TT#10-CHT cho Ông Kh, Tnhận được tin nhắn qua số điện thoại 0913.9X33 của T(đăng ký báo tin nhắn) báo tin tiền đã chuyển vào tài khoản.

Ngày 11/3/2019, Ông Kh gặp T về việc khách hàng chuyển trả tiền, tuy biết tiền đã chuyển vào tài khoản Công ty Trung T , nhưng Tnói dối với Ông Kh là chưa nhận được nhằm để Ông Kh tin tưởng không kiểm tra từ phía Ngân hàng VP, để Tcó điều kiện rút tiền ra chiếm đoạt.

Cùng ngày, Tđến Ngân hàng VP làm thủ tục quy đổi ngoại tệ 68,500 USD với tỷ giá là 23.167 VNĐ/01 USD, thành 1.586.939.500 Việt Nam đồng (viết tắt 1.586.939.500đ) và rút số tiền 1.550.000.000đ đem trả Ông Mạc Thế K tiền T vay của Ông K.

Ngày 13/3/2019, Ông Kh tiếp tục gặp T về số tiền khách hàng thanh toán hợp đồng thì lúc này T thừa nhận với Ông Kh là khách hàng đã trả và T đã rút hết số tiền trên trả nợ cá nhân và hẹn với Ông Kh 01 tuần sau Tsẽ hoàn trả lại cho Ông Kh.

Ngày 15/3/2019, Tđến Ngân hàng A vay tiền, được Ngân hàng A giải ngân cho Tvay số tiền 3.000.000.000đ; số tiền này T đem trả cho Ông Mạc Thế K 1.500.000.000đ, số còn lại T trả lãi ngân hàng và đầu tư kinh doanh mà không hoàn trả tiền cho Ông Kh.

Ngày 23/4/2019, T tiếp tục làm thủ tục rút quy đổi ngoại tệ rút hết 206 USD còn lại, với tỷ giá 23.205 VNĐ/1USD, thành tiền là 4.780.230đ, sử dụng chi xài cho cá nhân.

Như vậy, trong các ngày 11 và 13/3/2019, T đã làm thủ tục rút tiền của Ông Kh 68,706 USD và đã quy đổi thành tiền Việt Nam là 1.591.719.730đ, T chiếm đoạt toàn bộ số tiền này.

Ngày 05/5/2021, Ông Võ Đăng Kh làm đơn yêu cầu xử lý hình sự đối với Trương Trung T. Ngày 18/5/2022 Cơ quan điều tra mời Tlàm việc, đến ngày 04/7/2022 và 18/7/2022 Cơ quan Cảnh sát điều tra tiến hành xác minh thì T đã bỏ trốn đi khỏi địa phương.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 22/2023/HS-ST ngày 25/4/2023 Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau đã xử:

Căn cứ khoản 4 Điều 175; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự;

Tuyên bố: Bị cáo Trương Trung T phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”; Tuyên phạt: Bị cáo Trương Trung T 08 (tám) năm tù; Thời hạn tù được tính từ ngày 30 tháng 9 năm 2022.

Trách nhiệm dân sự: Căn cứ khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 584; khoản 1 Điều 585; khoản 1 Điều 589 của Bộ luật Dân sự; điểm a, c khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Trương Trung T có nghĩa vụ tiếp tục hoàn trả cho Ông Võ Đăng Kh số tiền 1.391.719.000đ (Một tỷ ba trăm chín mươi mốt triệu bảy trăm mười chín ngàn đồng).

Ngoài ra, bản án còn tuyên xử lý vật chứng, lãi suất chậm thi hành án, án phí và quyền kháng cáo theo quy định.

Ngày 26/4/2023, Ông Võ Đăng Kh kháng cáo yêu cầu sửa phần dân sự buộc Ông Mạc Thế K hoàn trả số tiền 1.391.719.730 đồng mà bị cáo T chiếm đoạt để trả cho Ông K vì là tiền do T phạm tội mà có.

Ngày 08/5/2023, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 01/QĐ-VKS-P1 đề nghị xét xử phúc thẩm căn cứ khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự buộc Ông Mạc Thế K phải có nghĩa vụ hoàn trả lại cho bị hại Võ Văn K số tiền 1.391.719.730 đồng.

Tại phiên tòa phúc thẩm, người bị hại Võ Đăng Kh trình bày: việc bị cáo T chiếm đoạt tiền của tôi đem trả nợ cho Ông Mạc Thế K là khoản nợ riêng, đây là tiền vật chứng của vụ án nên yêu cầu buộc Ông K phải trả lại cho tôi. Về chứng cứ theo lời khai thừa nhận của bị cáo T, các chứng cứ trong hồ sơ đủ căn cứ xác định tiền bị cáo Ttrả cho Ông K là tiền chiếm đoạt của tôi, Ngân hàng Cổ phần Việt Nam Thịnh Vượng là nơi Ông K làm Giám đốc Chi nhánh đương nhiên biết rõ tiền trong tài khoản không phải là tiền của bị cáo T, nhân viên Ngân hàng kiểm soát chặt chẽ, không cho tôi tự rút ra.

Bị cáo Nguyễn Trung Ttrình bày: Lời khai của bị cáo trong quá trình sơ thẩm là đúng, việc buộc Ông K hoàn trả để trả nợ cho Ông Kh thay bị cáo, bị cáo chấp hành không có ý kiến gì.

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa nêu quan điểm: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của người bị hại, kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau và sửa bản án sơ thẩm buộc Ông Mạc Thế K hoàn trả lại cho bị hại Võ Đăng K số tiền 1.391.719.730 đồng do đây là tiền tang vật của vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ông Mạc Thế K vắng mặt nhưng đã được tống đạt hợp lệ, xét thấy Ông K vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hay trở ngại khách quan nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 351 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[1.2] Đơn kháng cáo của người bị hại Võ Đăng K, kháng nghị số 01/QĐ-VKS-P1 ngày 08/5/2023 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau được gửi đến Tòa án trong thời hạn luật định nên được chấp nhận và xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về phần trách nhiệm hình sự của Bản án sơ thẩm đã căn cứ khoản 4 Điều 175; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự. Tuyên bố: Bị cáo Trương Trung T phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”; tuyên phạt: Bị cáo Trương Trung T 08 (tám) năm tù. Bị cáo và các đương sự không kháng cáo, Viện kiểm sát không có kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, Hội đồng xét xử phúc thẩm không xem xét.

[2.2] Xét kháng cáo của người bị hại Võ Đăng K và kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau, nhận thấy:

Bị cáo Trương Trung T thừa nhận số tiền chiếm đoạt được từ Ông Võ Đăng Kh ngày 11/3/2019 bị cáo Tđến Ngân hàng VP - Chi nhánh Cà Mau làm thủ tục quy đổi ngoại tệ 68,500 USD với tỷ giá 23.167 VNĐ/1USD thành tiền là 1.585.939.500 đồng T rút toàn bộ vốn và lãi đem trả cho Ông Mạc Thế K về khoản nợ của bị cáo 1.550.000.000 đồng, số còn lại tiêu xài cá nhân. Lời khai của bị cáo T phù hợp với các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án, phù hợp với lời khai của bị hại Kh và lời khai của Ông Mạc Thế K về việc có nhận sồ tiền do bị cáo T trả nợ 2 lần, lần 1 khoảng tháng 3/2019 trả 1,5 tỷ đồng, lần 2 T trả số tiền hơn 1,5 tỷ đồng sau lần 1 khoảng 1 tháng nhưng không biết tiền từ đâu T có để trả. Như vậy, có đủ cơ sở xác định số tiền 1.550.000.000 đồng bị cáo T trả khoản nợ riêng cho Ông Mạc Thế K là do chiếm đoạt của Ông Võ Đăng Kh. Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng không có chứng cứ để chứng minh khi Ông K nhận 1.550.000.000 đồng tiền bị cáo trả nợ thì Ông K biết đây là khoản tiền do bị cáo phạm tội mà có và pháp luật cũng không quy định bắt buộc đối với Ông K khi nhận tiền do bị cáo trả nợ Ông K phải hỏi rõ về nguồn gốc số tiền có được để trả nợ, việc Ông K nhận 1.550.000.000 đồng tiền do bị cáo trả Ông K không có lỗi từ đó không chấp nhận thu hồi số tiền có nguồn gốc do phạm tội mà có theo yêu cầu của Ông Kh cũng như đề nghị của Viện kiểm sát là giải quyết không đúng phần trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự, số tiền này có nguồn gốc do phạm tội mà có cần thiết phải thu hồi. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 buộc Ông Mạc Thế K phải hoản trả số tiền 1.391.719.000 đồng (đây là phần trách nhiệm dân sự còn lại của bị cáo T với bị hại Kh) cho Ông Võ Đăng Kh để đảm bảo việc thi hành phần trách nhiệm bồi thường của bị cáo Trương Trung T theo luật định.

[3] Với nhận định trên là cơ sở để chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tại phiên tòa đề nghị chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau và kháng cáo của người bị hại, sửa bản án sơ thẩm về phần trách nhiệm dân sự.

[4] Các nội dung khác trong quyết định bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[5] Bị cáo T, bị hại K không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm do kháng cáo được chấp nhận. Hoàn trả số tiền tạm ứng án phí: 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) cho Ông Võ Đăng Kh theo Biên lai thu tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: điểm b khoản 1 Điều 355; Điều 357; điểm b khoản 1 Điều 351 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận kháng cáo của người bị hại Ông Võ Đăng Kh, chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau, sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 22/2023/HS-ST ngày 25/4/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau về phần trách nhiệm dân sự, cụ thể tuyên:

Phần trách nhiệm dân sự:

Áp dụng: khoản 2 Điều 47; khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ dung năm 2017; khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 584; khoản 1 Điều 585; khoản 1 Điều 589 của Bộ luật Dân sự; điểm a, c khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Trương Trung T có nghĩa vụ tiếp tục bồi thường cho Ông Võ Đăng Kh số tiền 1.391.719.000đ (Một tỷ ba trăm chín mươi mốt triệu bảy trăm mười chín ngàn đồng).

Buộc Ông Mạc Thế K hoàn trả số tiền 1.391.719.000đ (Một tỷ ba trăm chín mươi mốt triệu bảy trăm mười chín ngàn đồng) cho Ông Võ Đăng Kh để đảm bảo việc thi hành phần trách nhiệm bồi thường thay của bị cáo Trương Trung T.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, nếu chậm thi hành án thì hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.

2. Bị cáo Trương Trung T, người bị hại Võ Đăng K không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Hoàn trả số tiền tạm ứng án phí: 300.000đồng (Ba trăm ngàn đồng) cho Ông Võ Đăng Kh theo Biên lai thu tạm ứng án phí số 0000284 ngày 28/4/2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Cà Mau.

3. Các nội dung khác trong quyết định Bản án hình sự sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

27
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 867/2023/HS-PT

Số hiệu:867/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về