Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 69/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CG, TỈNH L

BẢN ÁN 69/2023/HS-ST NGÀY 12/07/2023 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 7 năm 2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện CG, tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 65/2023/TLST - HS ngày 19 tháng 6 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 70/2023/QĐXXST- HS, ngày 22 tháng 6 năm 2023, đối với bị cáo:

Họ và tên Trương Văn L, sinh năm: 2001.

Tên gọi khác: Mót.

Nơi thường trú: ấp Chợ Mỹ, xã ML, huyện CĐ, tỉnh L; Trình độ học vấn: 08/12; Nghề nghiệp: không; Dân tộc: kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trương Văn Đ và bà Huỳnh Ngọc L; Bản thân chưa có vợ, con; Tiền án: ngày 17/8/2020 bị Tòa án nhân dân huyện CĐ, tỉnh L, xử phạt 01 năm 06 tháng tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo bản án số 25/2020/HSST, đã chấp hành xong ngày 25/02/2022; Tiền sự: không. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/3/2023 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại: Huỳnh Phước D, sinh năm: 1993 (có mặt). Cư trú: ấp Tân Thanh A, xã P, huyện CG, tỉnh L.

Người làm chứng: Phạm HA, sinh năm: 1994 (vắng mặt).

Cư trú: ấp Phước Hưng 2, xã Phước Lâm, huyện CG, tỉnh L.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và qua quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 19 giờ 30 phút ngày 18/3/2023, anh Huỳnh Phước D điều khiển xe mô tô hiệu Honda, loại Wave alpha, biển số 62M1- xxxxx đến nhà của Phạm HA, thuộc ấp Phước Hưng 2, xã Phước Lâm, huyện CG chơi thì gặp Trương Văn L là bạn quen biết từ trước. Tại đây, D đưa số tiền 30.000 đồng và kêu L lấy xe mô tô của D đi mua nước về uống. Ngay lúc này, L nảy sinh ý định chiếm đoạt xe mô tô của D để bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Nên L điều khiển xe mô tô của D không đi mua nước uống mà đi đến địa bàn xã Tân Quý Tây, huyện Bình Chánh, Tp. Hồ Chí Minh để bán cho một người tên Bình không rõ lai lịch, địa chỉ với số tiền 4.500.000 đồng và đã tiêu xài cá nhân hết. Không thấy L mua nước về nên D nhiều lần liên lạc, tìm kiếm L nhưng không được, đến ngày 23/3/2023, D phát hiện L đang ở khu vực cầu Tân Quý, huyện Bình Chánh nên trình báo Công an. Qua truy xét, Trương Văn L đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Bản kết luận định giá số: 21/KL-HĐĐGTS ngày 24/3/2023 của Hội đồng định giá thường xuyên trong tố tụng hình sự huyện CG, kết luận: 01 (một) xe mô tô hiệu Honda Wave alpha, màu xanh- đen- bạc, biển số 62M1-xxxxx, trị giá là 17.330.000 đồng (Mười bảy triệu ba trăm ba mươi ngàn đồng).

Tại bản cáo trạng số 71/CT-VKSCG, ngày 19/6/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện CG truy tố bị cáo về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự.

Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 175; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 50 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Trương Văn L từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 175 Bộ luật hình sự.

Đề nghị áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự và Điều 584; 585; 586 và Điều 589 Bộ luật dân sự.

Về trách nhiệm dân sự: buộc bị cáo phải bồi thường cho anh Huỳnh Phước D số tiền 17.300.000 đồng.

Bị cáo, người bị hại không có ý kiến tranh luận. Bị cáo không nói lời sau cùng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện CG, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện CG, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục, quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Vào khoảng 19 giờ 30 phút ngày 18/3/2023, tại nhà của anh HA, bị cáo L được anh D giao 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Wave alpha để đi mua nước về uống, sau đó bị cáo L đã nảy sinh ý định chiếm đoạt xe mô tô của anh D để bán lấy tiền tiêu xài cá nhân, nên L điều khiển xe mô tô đến địa bàn xã Tân Quý Tây, huyện Bình Chánh, Tp. Hồ Chí Minh bán xe được 4.500.000 đồng, tiêu xài cá nhân hết. Bản kết luận định giá số: 21/KL-HĐĐGTS, ngày 24/3/2023, kết luận: 01 (một) xe mô tô của anh D, bị cáo chiếm đoạt trị giá là 17.330.000 đồng. Tài sản bị cáo chiếm đoạt có giá trị trên 4.000.000 đồng và đến Dới 50.000.000 đồng, nên hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự an toàn xã hội, gây mất an ninh trị an tại địa phương. Bị cáo nhận thức được hành vi lợi dụng lòng tin của bị hại để chiếm đoạt tài sản là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện tội phạm.

[4] Xét về tính tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: theo Bản án số 25/2020/HSST, ngày 17/8/2020 của Tòa án nhân dân huyện CĐ, tỉnh L, xử phạt 01 năm 06 tháng tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đã chấp hành xong ngày 25/02/2022. Ngày 18/3/2023 bị cáo lại thực hiện hành vi phạm tội do lỗi cố ý đây là trường hợp tái phạm quy định tại khoản 1 Điều 53 Bộ luật hình sự và là tình tiết tăng nặng theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[5] Xét về tính tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: phạm tội nhưng thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Xét thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, mới có thể giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người có ích cho xã hội. Xét thấy áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo cũng đủ răn đe, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 175 Bộ luật hình sự.

[8] Đối với đối tượng tên Bình, theo bị cáo khai là người mua xe mô tô, nhưng hiện không rõ nhân thân và khi bán xe bị cáo không nói rõ xe trên do phạm tội mà có nên chưa đủ cơ sở xác định hành vi của Bình cấu thành tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

[9] Về trách nhiệm dân sự: tại phiên tòa bị hại anh D yêu cầu bị cáo phải bồi thường giá trị xe mô tô là 17.300.000 đồng, trước yêu cầu của anh D, bị cáo đồng ý, nên ghi nhận.

[10] Về án phí: bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm và chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch trên số tiền còn phải bồi thường cho phía bị hại là 17.300.000 đồng theo quy định của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Trương Văn L phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 175; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 50 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Trương Văn L 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 26/3/2023.

Căn cứ Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự. Tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án (12/7/2023) để đảm bảo việc kháng cáo, kháng nghị và thi hành án.

Căn cứ Điều 48 Bộ luật hình sự và Điều 584; Điều 585; 586; Điều 589; Điều 357; Điều 468 Bộ luật dân sự.

Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường cho ông Huỳnh Phước D số tiền 17.300.000 đồng (mười bảy triệu ba trăm ngàn đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu thêm khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất pháp luật quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 865.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử sơ thẩm công khai báo cho bị cáo, người bị hại có mặt biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

29
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 69/2023/HS-ST

Số hiệu:69/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cần Giuộc - Long An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về