Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 67/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VIỆT YÊN, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 67/2023/HS-ST NGÀY 24/04/2023 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Trong ngày 24 tháng 4 năm 2023 tại trụ sở TAND huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 32/2023/TLST-HS ngày 27/02/ 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 36/2023/QĐXXST-HS ngày 13/3/2023; Quyết định hoãn phiên tòa số 29/2023/HS-ST ngày 27/3/2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 38/2023/HS-ST ngày 20/4/2023 đối với bị cáo:

- Họ và tên: Nguyễn Hồng Q, sinh năm 1987; Giới tính: Nam.

- Tên gọi khác: Không.

- Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: tổ 3, phường Đ, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái.

- Chỗ ở: khu L, phường V, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh.

- Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không.

- Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12.

- Con ông: Nguyễn Q V, sinh năm 1947 (đã chết).

- Con bà: Phạm Thị Y, sinh năm 1954.

- Gia đình có 04 chị em, bị cáo là con thứ tư.

- Vợ: Dương Thị T, sinh năm 1989 (đã ly hôn).

- Bị cáo có 03 con, con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2018.

- Tiền án, tiền sự: Không.

- Nhân thân: 02.

+ Tại bản án số 163/2022/HS-ST ngày 25/5/2022 của Toà án nhân dân thành phố Hà Nội xử phạt 08 năm tù về tội “Mua bán người dưới 16 tuổi”, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ đi thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/02/2021 đến ngày 23/9/2021.

+ Tại bản án số 227/2022/HSST ngày 08/11/2022 của Toà án nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội xử phạt 12 tháng tù về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”.

Hiện đang chấp hành án tại trại giam Thanh Lâm- Cục C10- Bộ Công an. (có mặt tại phiên tòa)

* Bị hại: Chị Hoàng Thị H, sinh năm 1995; Đăng ký HKTT: xóm K, xã Đ, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng; Chỗ ở: tổ dân phố M 1, thị trấn N, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. (có mặt)

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Văn D, sinh năm 1977, Địa chỉ: Khu T, phường N, thành phố Bắc Hinh, tỉnh Bắc Ninh. (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Hồng Q- sinh năm 1987, đăng ký hộ khẩu thường trú: tổ 3, phường Đ, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái; chỗ ở: khu Lãm Làng, phường Vân Dương, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh và chị Hoàng Thị H- sinh năm 1995, đăng ký hộ khẩu thường trú: xóm K, xã L, huyện Hoà An, tỉnh Cao Bằng; chỗ ở: tổ dân phố M 1, thị trấn N, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang có mối quan hệ quen biết với nhau từ trước qua mạng xã hội.

Ngày 10/7/2022, Q đi xe khách từ thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh đến huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang chơi. Khi đi đến lối rẽ vào cổng làng M, thị trấn N, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang; Q gọi điện cho chị H ra đón Q (chị H ở trọ tại tổ dân phố M, thị trấn N, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang). Một lúc sau, chị H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision, màu sơn đỏ- nâu- đen, biển kiểm soát 11H1- 227.xx ra đón Q. Sau khi gặp chị H, Q rủ chị H đi lên thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc cùng Q có việc, chị H đồng ý và đưa xe mô tô để Q chở chị H đi. Đến khoảng 17 giờ cùng ngày, chị H và Q về đến phòng trọ của chị H. Lúc này, Q bảo chị H là phải đi có việc và mượn chiếc xe mô tô biển kiểm soát 11H1- 227.xx, chị H đồng ý cho Q mượn và giao chìa khoá cùng giấy tờ thế chấp ngân hàng của chiếc xe trên cho Q. Đến khoảng 11 giờ 45 phút ngày 11/7/2022, do không có tiền chi tiêu cá nhân nên Q đã nảy sinh ý định bán chiếc xe mô tô của chị H cho mượn để lấy tiền. Để thực hiện ý định, Q điều khiển chiếc xe mô tô 11H1- 227.xx đi đến cửa hàng mua bán ô tô, xe máy, xe điện cũ, mới “Tuấn Dũng” của anh Nguyễn Văn D- sinh năm 1977, trú tại khu T, phường N, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh thoả thuận bán chiếc xe mô tô 11H1- 227.xx cho anh D với giá 16.500.000 đồng. Sau khi kiểm tra, xem chiếc xe thấy đầy đủ giấy tờ xe và xe không có dấu hiệu bị cậy phá khoá nên anh D đồng ý mua chiếc xe mô tô trên do Q mang đến. Hai bên viết giấy mua bán xe đề ngày 11/7/2022 và anh D chuyển khoản từ số tài khoản 03510005605xx mang tên Nguyễn Văn D tại Ngân hàng Vietcombank đến số tài khoản 094565767xx mang tên Nguyễn Tuấn A tại Ngân hàng Quân đội (tài khoản này do Q mượn của một người không quen biết tại quán nước ven đường) số tiền là 16.000.000 đồng. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, Q đi đến cửa hàng của anh D và đặt vấn đề mua lại chiếc xe 11H1- 227.xx với giá 16.900.000 đồng, anh D đồng ý bán lại xe cho Q, sau đó Q chuyển khoản cho anh D từ tài khoản Nguyễn Tuấn A sang tài khoản Nguyễn Văn D số tiền 16.900.000 đồng. Ngày 12/7/2022, Q đi xe mô tô 11H1- 227.xx đến phòng trọ của chị H để trả xe mô tô cho chị H rồi bắt xe khách về Bắc Ninh. Khoảng 09 giờ ngày 13/7/2022, Q lại đi lên tỉnh Bắc Giang chơi, khi đi đến cầu vượt Đình Trám, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang; Q gọi điện thoại cho chị H ra đón. Khoảng 15 phút sau, chị H điều khiển xe mô tô 11H1-227.xx đến đón Q sau đó chị H và Q cùng đi đến một quán nước ở tổ dân phố M 1, thị trấn N, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang để ngồi chơi, uống nước, nói chuyện. Khoảng 11 giờ cùng ngày, Q chở chị H về phòng trọ và nói với chị H là có việc gấp phải đi về Hà Nội. Thấy vậy, chị H có bảo với Q “Nếu anh vội thì cứ lấy xe của em đi”, Q đồng ý và mượn xe của chị H để đi về Hà Nội giải quyết công việc. Sau khi được chị H cho mượn xe, do cần tiền chi tiêu cá nhân nên Q nảy sinh ý định bán chiếc xe của chị H bán lấy tiền chi tiêu. Để thực hiện ý định, Q điều khiển xe đi thẳng về Hà Nội, mặc dù chị H có liên lạc để đòi xe nhiều lần nhưng Q đều lấy lý do bận việc nên chưa trả xe cho chị H được. Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 21/7/2022, Q điều khiển xe mô tô đến cửa hàng mua bán ô tô, xe máy, xe điện cũ, mới “Tuấn Dũng” của anh Nguyễn Văn D để bán chiếc xe 11H1- 227.xx cho anh D với giá 16.000.000 đồng, anh D đồng ý mua. Do anh D vẫn giữ giấy mua bán xe ngày 11/7/2022 nên hai bên không viết lại giấy tờ mua bán xe nữa. Anh D chuyển khoản cho Q số tiền 14.000.000 đồng, còn 2.000.000 đồng anh D trả Q bằng tiền mặt, số tài khoản nhận của giao dịch chuyển tiền là 08210001755xx mang tên Nguyễn Thị D2 tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Vietcombank (tài khoản này Q cũng mượn của một người không quen biết tại quán nước ven đường). Sau khi nhận tiền bán xe cho anh D, Q đã sử dụng vào việc chi tiêu cá nhân hết. Đến ngày 22/7/2022, Q bị Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội triệu tập làm việc để điều tra, làm rõ về hành vi “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”.

Ngày 26/7/2022, chị Hoàng Thị H có đơn trình báo đến Công an huyện Việt Yên.

Ngày 28/7/2022, anh Nguyễn Văn D tự nguyện giao nộp cho Cơ quan điều tra 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision màu sơn đỏ- nâu- đen, biển kiểm soát 11H1- 277.xx; 01 “Giấy mua bán xe” mô tô với Nguyễn Hồng Q (bản gốc); 01 thẻ ngân hàng Viettinbank mang tên Hoang Thi Hao; 01 bản photo công chứng căn cước công dân số 004195005xxx mang tên Hoàng Thị H; 01 bản photo công chứng đăng ký xe mô tô biển kiểm soát 11H1- 277.xx mang tên chủ sở hữu là Hoàng Thị H; 01 giấy biên nhận thế chấp xe mô tô 11H1- 277.xx.

Tại Kết luận định giá tài sản số 109/KL-HĐĐGTS ngày 03/8/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Việt Yên kết luận: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision, màu sơn đỏ- nâu- đen, biển kiểm soát 11H1- 227.xx có giá trị 28.400.000 đồng.

Ngày 20/9/2022, Cơ quan điều tra Công an huyện Việt Yên tiến hành trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Bắc Giang giám định chữ viết, chữ ký trên 01 “Giấy mua bán xe” đề ngày 11/7/2022 (ký hiệu A).

Tại Kết luận giám định số 1735/KL-KTHS ngày 28/9/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Bắc Giang kết luận: Chữ ký, chữ viết trên tài liệu cần giám định (ký hiệu A- trừ chữ viết có nội dung “16.000.000” tại mục “Với số tiền hai bên đã thoả thuận:” so với chữ ký, chữ viết của Nguyễn Hồng Q trên các tài liệu mẫu (ký hiệu M1, M2) là do cùng một người ký, viết ra.

Ngày 25/9/2022, Cơ quan điều tra tiến hành kiểm tra lịch sử giao dịch tài khoản ngân hàng của anh Nguyễn Văn D. Kết quả thể hiện có giao dịch chuyển tiền giữa anh D và Q vào các ngày 11/7/2022 và 21/7/2022 phù hợp với lời khai của các bên tại Cơ quan điều tra.

Trong các ngày 12/9/2022, 23/9/2022 và 25/9/2022, Cơ quan điều tra tiến hành cho chị Hoàng Thị H, Nguyễn Hồng Q và anh Nguyễn Văn D nhận dạng người qua ảnh. Kết quả chị H nhận ra Q là người đã mượn xe mô tô 11H1- 277.xx của chị nói là để đi có việc nhưng từ đó đến nay chưa trả lại xe cho chị; Q nhận ra chị H là người đã cho Q mượn xe mô tô 11H1- 277.xx; anh D nhận ra Q là người đã mang bán cho anh chiếc xe mô tô 11H1- 277.xx vào tháng 7/2022.

Ngày 25/10/2022, Cơ quan điều tra có công văn gửi Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) và Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam (VietinBank) về việc đề nghị cung cấp thông tin chủ tài khoản, sao kê các số tài khoản 035100056xxxx, 08210001755xx và 094565767xx từ ngày 10/7/2022 đến ngày 21/7/2022. Kết quả tài khoản số 035100056xxxx được mở tại Ngân hàng ngoại thương (Vietcombank) Chi nhánh Bắc Ninh, chủ tài khoản là Nguyễn Văn D; tài khoản số 08210001755xx được mở tại Ngân hàng ngoại thương (Vietcombank) Chi nhánh Thái Nguyên, chủ tài khoản là Nguyễn Thị D2- sinh năm 1993, trú tại xã Tân Dĩnh, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang; tài khoản số 094565767xx được mở tại Ngân hàng thương mại cổ phần quân đội (MB Bank) chi nhánh Hai Bà Trưng, Hà Nội, chủ tài khoản là Nguyễn Tuấn A- trú tại số 50, Nguyễn Khuyến, phường Văn Miếu, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội. Tài liệu sao kê thể hiện có giao dịch chuyển khoản giữa tài khoản của Nguyễn Văn D với tài khoản của Nguyễn Thị D2, Nguyễn Tuấn A phù hợp với lời trình bày của bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan tại Cơ quan điều tra.

Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay, Nguyễn Hồng Q đã khai nhận hành vi phạm tội.

Tại Bản cáo trạng số 25/CT-VKS ngày 18/02/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Việt Yên đã truy tố bị cáo Nguyễn Hồng Q về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm đã truy tố bị cáo và đề nghị HĐXX:

1. Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 175; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 56 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Hồng Q từ 01 năm 06 tháng đến 01 năm 09 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Tổng hợp với hình phạt 08 năm tù về tội “Mua bán người dưới 16 tuổi” tại Bản án số 163/2022/HS-ST ngày 25/5/2022 của Toà án nhân dân thành phố Hà Nội và hình phạt 12 tháng tù về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” tại Bản án số 227/2022/HSST ngày 08/11/2022 của Toà án nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội thành hình phạt chung của 3 bản án từ 10 năm 06 tháng đến 10 năm 09 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 25/7/2022, nhưng được trừ đi thời gian tạm giữ tạm giam từ ngày 26/02/2021 đến ngày 23/9/2021 của Bản án số 163/2022/HS-ST ngày 25/5/2022 của Toà án nhân dân thành phố Hà Nội.

2. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo Nguyễn Hồng Q không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản nên cần miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, nộp án phí, lệ phí tòa án, buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo nhận tội và không có tranh luận gì với bản luận tội của Viện kiểm sát. Bị cáo Nguyễn Hồng Q nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng điều tra viên, kiểm sát viên, của cơ quan điều tra Công an huyện Việt Yên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Việt Yên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của bộ luật tố tụng hình sự.

[2]. Về tội danh: Khoảng 11 giờ ngày 21/7/2022, tại tổ dân phố M 1, thị trấn N, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang; Nguyễn Hồng Q có hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision, màu sơn đỏ- nâu- đen, biển kiểm soát 11H1- 227.xx có giá trị 28.400.000 đồng của chị Hoàng Thị H- sinh năm 1995, trú tại xóm Đoàn Kết, xã Đức Long, huyện Hoà An, tỉnh Cao Bằng.

Hành vi của các bị cáo đã có đủ yếu tố cấu thành tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Việt Yên truy tố bị cáo theo điểm b khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây dư luận xấu và hoang mang trong quần chúng nhân dân cũng như gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương.

[3]. Xét về nhân thân bị cáo: Bị cáo là người có nhân thân xấu:

Năm 2022 bị Toà án nhân dân thành phố Hà Nội xử phạt 08 năm tù về tội “Mua bán người dưới 16 tuổi”; Bị Toà án nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội xử phạt 12 tháng tù về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”.

[4]. Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, truy tố bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã tác động đến gia đình để bồi thường cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và được bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; bố đẻ của bị cáo là người có công với cách mạng được Nhà nước tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng nhì nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5]. Xét về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Nguyễn Hồng Q không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[6]. Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo Nguyễn Hồng Q không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên cần miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[7]. Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng:

Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã trả lại cho chị Hoàng Thị H 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision, màu sơn đỏ- nâu- đen, biển kiểm soát 11H1- 277.xx và 01 thẻ Ngân hàng Viettinbank mang tên Hoang Thi Hao là tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của chị Hoàng Thị H. Đến nay chị H không có yêu cầu bồi thường gì thêm có có mặt tại phiên tòa trình bày xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Anh Nguyễn Văn D yêu cầu bị cáo trả lại cho anh số tiền 16.000.000 đồng đã bỏ ra mua chiếc xe mà bị cáo đã chiếm đoạt của chị H. Tại phiên tòa, anh D có mặt trình bày: Anh đã được gia đình bị cáo bồi thường số tiền 16.000.000đ, nay anh không yêu cầu bồi thường gì thêm và có ý kiến xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

[8]. Những vấn đề khác: Đối với anh Nguyễn Văn D là người đã mua chiếc xe mô tô do Q chiếm đoạt của chị H mang đến bán; quá trình điều tra xác định khi mua xe mô tô anh D không biết đây là tài sản do Q phạm tội mà có nên anh D không vi phạm pháp luật là có căn cứ.

Đối với Nguyễn Thị D2, Nguyễn Tuấn A là những người đứng tên chủ tài khoản và giao dịch chuyển tiền với anh Nguyễn Văn D để mua bán xe mô tô 11H1- 277.xx với Nguyễn Hồng Q; quá trình xác minh tại các địa phương không có công dân nào có tên Nguyễn Thị D2 và Nguyễn Tuấn A có địa chỉ như đã nêu trên. Mặt khác, Q trình bày không quen biết gì với những người này mà chỉ chuyển khoản nhờ để đổi lấy tiền mặt, Q không bàn bạc với ai khi thực hiện hành vi phạm tội nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xem xét, xử lý là có căn cứ.

[9]. Về án phí: Bị cáo Q phải chịu án phí theo quy định. Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 175; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 56 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Hồng Q 01 (một) năm 06(sáu) tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Tổng hợp với hình phạt 08 (tám) năm tù về tội “Mua bán người dưới 16 tuổi” tại Bản án số 163/2022/HS-ST ngày 25/5/2022 của Toà án nhân dân thành phố Hà Nội và hình phạt 12 (mười hai) tháng tù về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” tại Bản án số 227/2022/HSST ngày 08/11/2022 của Toà án nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội thành hình phạt chung của 3 bản án là 10 (mười) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 25/7/2022, nhưng được trừ đi thời gian tạm giữ tạm giam từ ngày 26/02/2021 đến ngày 23/9/2021 của Bản án số 163/2022/HS-ST ngày 25/5/2022 của Toà án nhân dân thành phố Hà Nội.

2. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, nộp án phí, lệ phí tòa án, buộc bị cáo Nguyễn Hồng Q phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6,7, 7a, 7b và 9 Lụât Thi hành án dân sự; thời hiêụ thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

6
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 67/2023/HS-ST

Số hiệu:67/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Việt Yên - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về