Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 540/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 540/2022/HS-ST NGÀY 28/11/2022 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 11 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân T phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 774/2022/HSST ngày 13/10/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 5400/2022/QĐXXST-HS ngày 16/11/2022 đối với bị cáo: Phan Thắng L, sinh năm 1983 tại Cà Mau; nơi thường trú: ấp Đ, xã Đ1, huyện H, tỉnh Bình Phước; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Phó Giám đốc Công ty TNHH Đầu tư Dịch vụ vận tải A; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Minh N và bà Nguyễn Thị T chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: không. Bị bắt, tạm giam ngày 18/02/2022 (có mặt).

Người bào chữa: Luật sư Trần Thị Ngân H thuộc Đoàn luật sư T phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo Phan Thắng L (có mặt).

Bị hại:

1. Công ty TNHH Phân phối và Xuất nhập khẩu E; địa chỉ: 156/23 H, Khu phố 2, phường T, Quận A, T phố Hồ Chí Minh.

Đại diện theo pháp luật: ông Đặng Phước T, sinh năm: 1988, chức vụ: Giám đốc (có mặt).

2. Ông Đặng T H, sinh năm: 1987; chỗ ở: 183/40A B, Phường A, Quận B, T phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Nguyễn Ngọc H, sinh năm: 1984; trú tại: ấp A, xã A1, huyện K, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).

2. Ông Nguyễn Hồng Q, sinh năm: 1973; trú tại: thôn N, xã H, huyện H1 tỉnh H Tĩnh (vắng mặt).

Người làm chứng:

1. Ông Đặng Anh T1, sinh năm: 1979 (vắng mặt).

2. Bà Phan Kim T, sinh năm: 1977 (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Công ty TNHH Đầu tư Dịch vụ vận tải A (viết tắt là Công ty Hà Anh) được Sở Kế hoạch và Đầu tư T phố Hồ Chí Minh cấp Giấy đăng ký kinh doanh lần đầu ngày 10/02/2017; thay đổi lần thứ nhất, ngày 30/11/2017; địa chỉ trụ sở chính tại số 344 Đỗ Pháp Th, Khu phố 5, phường An Phú, Quận 2 (nay là thành phố Thủ Đức), T phố Hồ Chí Minh do Nguyễn Ngọc H, làm Giám đốc, kiêm người đại diện theo pháp luật và Phan Thắng L, làm Phó Giám đốc. Ngành nghề kinh doanh: Cho thuê xe có động cơ, vận tải hành khách, đại lý du lịch,...

Công ty TNHH Phân phối và Xuất nhập khẩu E (viết tắt là Công ty E) được Sở Kế hoạch và Đầu tư T phố Hồ Chí Minh cấp Giấy đăng ký kinh doanh lần đầu ngày 26/12/2014; địa chỉ trụ sở tại số 156/23 Huỳnh Tấn Phát, Khu phố 2, phường Tân Th Tây, Quận 7, T phố Hồ Chí Minh, do Đặng Phước T, làm Giám đốc kiêm người đại diện theo pháp luật.

Ngày 21/3/2019, Phan Thắng L (đại diện Công ty A) ký Hợp đồng thuê xe với ông Đặng Phước T (đại diện Công ty E), thuê 01 xe ô tô nhãn hiệu Mitsubishi Outlanđer, biển số 51G-xxxxx, thời hạn thuê 12 tháng, giá thuê 15.000.000đồng/tháng, sử dụng kinh doanh vận tải, hình thức thanh toán bằng cách chuyển khoản trước ngày 25 hàng tháng. Sau khi ký hợp đồng, nhận xe và giấy tờ xe liên quan, L chỉ thanh toán tiền thuê xe 01 lần vào ngày 28/3/2019, sau đó không thanh toán và cắt liên lạc với ông T. Đến ngày 27/4/2019, Phan Thắng L mang xe ô tô thế chấp (mặc dù theo Khoản 5, khoản 6 Điều 3 Hợp đồng đã ký với Công ty E, L không được mang xe cầm cố) để thay thế và nhận lại xe ô tô nhãn hiệu ISUZU mà L đã thế chấp trước đó cho Trần Hữu Th để với giá 200.000.000 đồng để cấn trừ số nợ 30.000.000 đồng về để trả cho chủ sở hữu.

Tương tự như trên, ngày 16/4/2019, Phan Thắng L (đại diện Công ty A) ký hợp đồng với ông Đặng T H thuê 01 xe ô tô nhãn hiệu Ford Transit, biển số 51B-xxxxx, thời hạn thuê 12 tháng với giá thuê 16.000.000 đồng/tháng, sử dụng kinh doanh vận tải, hình thức thanh toán bằng cách chuyển khoản trước ngày 20 hàng tháng. Sau khi ký, hợp đồng, nhận xe và giấy tờ xe liên quan, L chỉ thanh toán tiền thuê xe 02 lần vào ngày 22/4/2019 và ngày 28/5/2019, sau đó không thanh toán và cắt liên lạc với ông H. Đến ngày 25/5/2019, Phan Thắng L mang xe ô tô trên thế chấp cho Trần Hữu Th với giá 160.000.000 đồng để cấn trừ nợ và vay nợ tiêu xài cá nhân.

Hai xe ô tô sau khi Phan Thắng L mang cầm cho Trần Hữu Th, đã bị Th tiếp tục cầm cho người khác. Biết việc mang 02 xe ô tô trên thế chấp trái phép cho Trần Hữu Th là vi phạm pháp luật nên ngày 09/9/2019, chị gái của Phan Thắng L là Phan Kim T đã nhờ Đặng Anh T1 chuyển trả cho Trần Hữu Th 400.000.000 đồng để chuộc lại 02 xe ô tô nêu trên cho L, nhưng Th vẫn chưa giao xe lại cho L để trả cho chủ sở hữu.

Quá trình điều tra, Phan Thắng L khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Ngoài ra, L còn khai nhận: L là người thành lập, quản lý, điều hành Công ty A, nhưng nhờ Nguyễn Ngọc H đứng tên Giám đốc, L giữ chức danh Phó Giám đốc. Sau khi thuê xe ô tô Mitsubishi Outlander, biển số 51G-xxxxx (07 chỗ) của Công ty E (do ông Đặng Phước T đại diện), L thanh toán tiền thuê xe 01 tháng cho ông T rồi mang xe ô tô thế chấp cho Trần Hữu Th. Thực chất là trước đó, L đã thế chấp cho Th xe ô tô nhãn hiệu KIA SEDONA vào ngày 02/02/2019 với giá 200.000.000 đồng. Do chủ xe đòi xe, nên L tiếp tục đưa xe ô tô nhãn hiệu ISUZU cho Th để lấy xe KIA SEDONA trả cho chủ. Cuối tháng 4/2019, chủ xe ô tô ISUZU đòi xe, nên L đã mang xe ô tô mà L thuê của ông T đến đưa cho Th, thay thế xe hiệu ISUZU L lấy về trả cho chủ. Số tiền 200.000.000 đồng nhận từ Th do thế chấp xe, L đã tiêu xài cá nhân hết.

Đối với xe ô tô Ford Transit (16 chỗ), biển số 51B-xxxxx thuê của ông Đặng T H, L chuyển trả tiền thuê xe cho ông H được 3 lần. Đến ngày 25/5/2019, do cần tiền trả nợ cho Th và tiêu xài, L đã mang xe ô tô thế chấp cho Trần Hữu Th với giá 160.000.000đ, tiền lãi 6.000.000đ/01 tháng.

Tại cơ quan điều tra, Phan Thắng L đã khai nhận hành vi phạm tội như trên.

Trần Hữu Th khai: khoảng ngày 02/02/2019, Phan Thắng L mang xe ô tô KIA SEDONA đến cầm cho Th lấy 200.000.000 đồng. Khi cầm xe, L có cho Th coi hợp đồng thuê xe của L với người khác (Th chỉ xem, không giữ). Cuối tháng 02/2019, chủ xe ô tô cùng L qua lấy lại xe, L mang xe ISUZU thế cho Th để lấy xe. Đến khoảng tháng 4/2019, do chủ xe ISUZU đòi, nên L gọi xin cho lấy xe ISUZU về, vài ngày sau sẽ mang xe khác qua thay thế, Th đồng ý cho L lấy xe. Vài ngày sau, L trực tiếp mang xe ô tô nhãn hiệu Mitsubishi Outlander, 07 chỗ, màu trắng, biển số 51 G-xxxxx và giấy tờ xe liên quan đến giao cho Th để thay thế cho việc cầm cố xe và đã nhận 200.000.000 đồng của Th, tiền lãi 40.000.000đ/01 tháng. Đến tháng 7/2019, vì cần tiền, Th đã mang xe ô tô trên thế chấp cho một người đàn ông tên P, (không nhớ số điện thoại vì Th bị mất điện thoại, không rõ lai lịch) với giá 235.000.000 đồng.

Tiếp tục khoảng tháng 5/2019, L mang xe ô tô nhãn hiệu Ford Transit, 16, chỗ, màu xám, biển số 51B-xxxxx đến thế chấp cho Th để lấy 160.000.000 đồng. L trực tiếp mang giao xe và giấy tờ kèm theo cho Th tại Bãi xe V. Theo thỏa thuận, Th sẽ giữ xe ô tô trên để sử dụng chuyên chở hành khách, tiền lãi là 10.000.000đồng/tháng, khi nào L có 160.000.000 đồng trả Th sẽ giao lại xe. Việc giao nhận xe giữa Th với L không lập biên bản và không có ai chứng kiến. Khoảng 03 ngày sau khi nhận xe, vì cần tiền tiêu xài cá nhân, Th mang xe ô tô trên thế chấp cho một người đàn ông ở miền Trung, không rõ lai lịch với giá 160.000.000 đồng, khi nào có tiền Th sẽ chuộc lại. Nhưng sau đó Th không liên lạc được với người đàn ông đó và cũng không có tiền để chuộc xe.

Ngày 07/8/2019, ông Đặng Anh T1, là người mua đất của chị Phan Kim T, là chị gái của Phan Thắng L, giao cho Th số tiền 400.000.000 đồng để chuộc 02 xe theo yêu cầu của L. Nhận được tiền Th đã sử dụng số tiền này vào mục đích tiêu xài cá nhân mà không đi chuộc xe trả cho L.

Ông Đặng Phước T khai: Thông qua các mối quan hệ xã hội, T biết Phan Thắng L. Ngày 21/3/2019, Thành và L đã ký kết hợp đồng cho thuê xe như nội dung trên. Sau khi ký hợp đồng, L chỉ thanh toán tiền thuê xe 01 lần, đến ngày 25/4/2019 L cắt định vị xe, ông T hỏi thì L nói xe để lâu không sử dụng nên hết bình; ngày 01/7/2019, L cam kết bàn giao xe và thanh toán hết công nợ cho ông T, nhưng đến ngày 10/7/2019, L cắt định vị xe. Ngày 10/8/2019, nhiều lần không liên lạc được với sau đó không tiếp tục thanh toán tiền thuê xe, cắt liên lạc nên ông T làm đơn tố cáo. Ngày 05/9/2019, T gặp L và Trần Hữu Th tại bãi xe Lộc Phát ở địa chỉ 104 B, phường K, Quận 7, tại đây, L thừa nhận do không có tiền nên đã tự ý cầm cố xe ô tô của T cho Th với giá 200.000.000 đồng, lãi suất 20%/tháng. Th cho biết đã cầm cố xe của ông T cho một người ngoài miền Bắc nhưng không cho biết số tiền cầm xe và thông tin lai lịch của người cầm. L nói sẽ nhờ người tên T1 trả Th 200.000.000 đồng để chuộc xe về trả lại cho T. Tuy nhiên, L vẫn không trả xe cho ông T và bỏ trốn khỏi địa phương.

Ông Đặng T H khai: Thông qua các mối quan hệ xã hội Hải biết Phan Thắng L. Ngày 16/4/2019, Hải và L ký hợp đồng cho thuê xe ô tô như nội dung trên. Sau khi ký hợp đồng, L chỉ thanh toán tiền thuê xe 02 lần với số tiền 29.000.000 đồng. Ngày 24/5/2019, ông H kiểm tra thì hệ thống định vị của xe bị cắt, ông H gọi hỏi thì L nói do hệ thống định vị của xe bị lỗi nên mất tín hiệu. Ngày 02/7/2019, hai bên làm Biên bản thanh lý hợp đồng, L sẽ giao xe cho ông H trước ngày 17/7/2019 và thanh toán tiền thuê xe trước ngày 26/7/2019. Ngày 05/7/2019, xe tiếp tục bị cắt định vị, ông H nhiều lần liên lạc với L để đòi xe và tiền thuê xe, L nói vẫn đang quản lý sử dụng xe để chở khách. Đến ngày 15/8/2019, L cắt liên lạc với ông H.

Ông Đặng Anh T1 khai: T1 là người quản lý tiệm cầm đồ Công H 6. Theo yêu cầu của Phan Thắng L và chị Phan Kim T (chị gái của L), T1 có đưa số tiền 400.000.000 đồng (tiền chị T chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho Đặng Anh T2 - em ruột của T1) cho Trần Hữu Th để Th trả lại 02 xe ô tô biển số 51G xxxxx và 51B xxxxx do L thế chấp cho Th trước đó. T1 khai nhận ngày 09/9/2019, T1 đã giao đủ số tiền 400.000.000đ cho Th. Ngày 07/8/2020, Th viết Giấy xác nhận về việc đã nhận đủ số tiền 400.000.000 đồng từ T1 để khắc phục hai chiếc xe BS 51G- xxxxx và 51B-xxxxx về trả cho ông L.

Bà Nguyễn Ngọc H - Giám đốc Công ty A khai: H và L quen biết nhau từ khoảng cuối năm 2016. Thời gian quen biết, tháng 02/2017, L có đăng ký thành lập Công ty A, L đề nghị H đứng tên làm Giám đốc kiêm người đại diện theo pháp luật, L là Phó Giám đốc để hoạt động kinh doanh và cho thuê xe ô tô. Vốn điều lệ của Công ty A là 9.500.000.000 đồng, trong Giấy phép đãng ký kinh doanh, H góp 51%, L góp 49%, nhưng thực chất toàn bộ vốn góp là của L, mọi hoạt động kinh doanh của công ty đều do L quản lý, điều hành. Từ tháng 3/2019 đến nay, H không còn liên lạc và không biết L đang làm gì, ở đâu.

Bà Phan Kim T khai: T là chị ruột của Phan Thắng L. T đã chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho Đặng Anh T2 với giá 500.000.000 đồng để có tiền chuộc xe cho L, vì L kinh doanh thua lỗ, nên thế chấp 02 xe ô tô biển Số 51G xxxxx và 51B xxxxx của ông Đặng Phước T và ông Đặng T H cho Trần Hữu Th với tổng số tiền 400.000.000 đồng. Ngày 11/9/2019, T điện thoại yêu cầu Đặng Anh T1 nhận từ T2 số tiền 400.000.000 đồng đưa cho Th để nhận xe về trả cho các ông T và Hải (vì T1 và T2 là anh em với nhau, đồng thời số tiền đó do T2 đang giữ nên T yêu cầu T1 nhận tiền của T2, đưa trực tiếp cho Th để việc thanh toán được nhanh chóng). Ngày 16/9/2019, T gọi điện thoại hỏi T1 về việc thanh toán trên, T1 xác nhận đã đưa số tiền 400.000.000 đồng cho Th.

Xác minh tại Phòng PC08 Công an T phố Hồ Chí Minh được biết: xe ô tô nhãn hiệu Mitsubishi Outlander, biển số kiểm soát 51G-xxxxx do Công ty E đứng tên chủ sở hữu và xe ô tô nhãn hiệu Ford Transit, biển số kiểm soát 51B-xxxxx do ông Đặng T H đứng tên chủ sở hữu.

Tại Bản Kết luận giám định số 580/KLGĐ-4T ngày 03/4/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an TP. Hồ Chí Minh kết luận: Hợp đồng thuê xe (không số) ngày 21/3/2019 đứng tên bên thuê xe là Phan Thắng L, bên cho thuê là Công Ly E, không đủ sở kết luận giám định chữ ký đứng tên “Phan Thắng L”, hình dấu tròn có nội dung Công ty A là hình dấu tròn của Công ty A đóng ra. Bản ảnh chụp màu Hợp đồng thuê xe (không số), ngày 16/4/2019, đứng tên đại diện bên thuê xe là Phan Thắng L, bên cho thuê xe là Đặng T H, chữ ký dứng tên “Phan Thắng L” và hình dấu tròn có nội dung Công ty A là chữ ký và hình dấu in phun màu nên không tiến hành giám định so sánh.

Tại bản Kết luận giám định số 1751/KLGĐ-4T ngày 24/3/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an TP. Hồ Chí Minh kết luận: Chữ ký tên “Th”, chữ ghi “Trần Hữu Th” và dấu vân tay đứng tên Trần Hữu Th trên Giấy biên nhận, đề ngày 07/8/2020 là của Trần Hữu Th ký, viết, lăn ra.

Tại Kết luận giám định số 19/C09B ngày 04/02/2021 của Phân viện Khoa học hình sự tại TP. Hồ Chí Minh kết luận: 02 file ghi âm mẫu cần giám định được ghi liên tục, không phát hiện thấy dấu hiệu cắt ghép, chỉnh sửa nội dung. Tiếng nói của người nam được gọi là “anh” (ký hiệu “L” trong “Bản dịch nội dung”) trong 02 file âm thanh mẫu cần giám định và tiếng nói của Phan Thắng L trong mẫu so sánh là của cùng một người nói ra. Tiếng nói của người nam tự xưng là “em” (ký hiệu “Th” trong “Bản dịch nội dung”) trong 02 file âm thanh mẫu cần giám định và tiếng nói của Trần Hữu Th trong mẫu so sánh là của cùng một người nói ra.

Tại bản Kết quả định giá tài sản số 2457/KL- HĐĐGTS ngày 29/4/2020 của Hội dồng Định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự cấp T phố, kết luận: xe ô tô biển số 51G-xxxxx trị giá 854.287.500 đồng, xe ô tô biển số 51B-xxxxx trị giá 506.667.000 đồng. Tổng trị giá 02 xe ô tô trên là 1.360.954.000 đồng.

Đối với Trần Hữu Th, mặc dù không hứa hẹn trước và biết rõ Phan Thắng L không phải là chủ sở hữu hợp pháp của xe ô tô nhàn hiệu Mitsubishi Outlander, biển số 51G-xxxxx và xe ô tô nhãn hiệu Ford Transit, biển số 51B- xxxxx nhưng Th vẫn thực hiện nhận thế chấp trái phép, sử dụng 02 xe ô tô trên thế chấp lại cho 02 cá nhân khác không rõ lai lịch. Khi thế chấp 02 xe ô tô, không còn quản lý, sử dụng, Th vẫn nhiều lần yêu cầu L giao số tiền 400.000.000 đồng để được nhận lại xe. Khi nhận đủ số tiền 400.000.000 đồng, Th đã không thực hiện giải chấp xe hoàn trả cho L, chiếm đoạt tài sản là 02 xe ô tô. Hnh vi trên của Trần Hữu Th đã có dấu hiệu tội phạm. Tuy nhiên, ngày 17/9/2021, Th đã chết vì bị nhiễm Covid-19 nên không bị xử lý.

Vật chứng của vụ án: thu giữ của Phan Thắng L 01 điện thoại di động hiệu Wiko.

Về trách nhiệm dân sự: ông Đặng Phước T đại diện Công ty TNHH Phân phối và Xuất nhập khẩu E xác nhận ông đã tự đi chuộc chiếc xe ô tô biển số 51G-xxxxx về và không yêu cầu bị cáo Phan Thắng L phải bồi thường thêm khoản nào khác. Ông Đặng T H yêu cầu bị cáo Phan Thắng L phải bồi thường trị giá xe ô tô biển số 51B-xxxxx bị chiếm đoạt không thu hồi được là 506.667.000 đồng.

Tại Bản Cáo trạng số 236/CT-VKS-P3 ngày 13/5/2022, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Phan Thắng L về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo khoản 4 Điều 175 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo Phan Thắng L đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân T phố Hồ Chí Minh đã nêu. Bị cáo thừa nhận việc Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội danh “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” là đúng, không oan sai.

Ông Đặng Phước T đại diện Công ty TNHH Phân phối và Xuất nhập khẩu E xác nhận ông đã tự đi chuộc lại chiếc xe ô tô biển số 51G- xxxxx, do bị cáo có hoàn cảnh khó khăn nên ông không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thêm khoản nào khác. Về hình phạt thì đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân T phố Hồ Chí Minh sau khi phân tích lời khai của bị cáo, cùng với các tình tiết, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Phan Thắng L về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng khoản 4 Điều 175; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt Phan Thắng L từ 12 đến 13 năm tù. Về trách nhiệm dân sự: do chiếc xe ô tô biển số 51G-xxxxx, ông Đặng Phước T đã tự đi chuộc về và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường nên đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận bị cáo không phải bồi thường về trách nhiệm dân sự cho Công ty TNHH Phân phối và Xuất nhập khẩu E; buộc bị cáo phải bồi thường cho ông Đặng T H trị giá xe ô tô biển số 51B-xxxxx bị chiếm đoạt không thu hồi được là 506.667.000 đồng. Đồng thời, xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Luật sư Trần Thị Ngân H trình bày bài bào chữa cho bị cáo Phan Thắng L cho rằng: cha bị cáo là thương binh ¾, bị cáo là lao động chính trong gia đình; bị hại có yêu cầu giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, bị cáo đã tác động gia đình khắc phục hậu quả 400.000.000 đồng nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo Phan Thắng L thống nhất với bài bào chữa của vị luật sư, không tranh luận gì thêm.

Ông Đặng Phước T đại diện Công ty TNHH Phân phối và Xuất nhập khẩu E không tranh luận.

Tranh luận lại quan điểm của vị luật sư, đại diện Viện kiểm sát cho rằng: số tiền 400.000.000 đồng, chị gái của bị cáo L đưa cho ông Trần Hữu Th mà không đưa trực tiếp cho bị hại, bị hại cũng không nhận được số tiền trên nên không được xem là khắc phục hậu quả.

Trong phần nói lời sau cùng, bị cáo Phan Thắng L thể hiện sự ăn năn, hối cải về những gì mình đã gây ra, mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt để sớm trở về gia đình, hòa nhập xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của của cơ quan cảnh sát điều tra Công an T phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân T phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Phan Thắng L, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại các bản tự khai, biên bản lấy lời khai, bị cáo đều trình bày lời khai hoàn toàn tự nguyện, không bị ép cung, nhục hình. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Phan Thắng L đã khai nhận toàn bộ những hành vi phạm tội do bị cáo gây ra như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân T phố Hồ Chí Minh.

Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đã có đủ căn cứ xác định: Ngày 21/3/2019 và ngày 16/4/2019, Phan Thắng L với tư cách là Phó giám đốc đã đại diện Công ty Hà Anh ký kết các hợp đồng thuê 02 xe ô tô nhãn hiệu Mitsubishi Outlander, biển số 51G-xxxxx của Công ty E do ông Đặng Phước T làm đại diện và thuê xe ô tô nhãn hiệu Ford Transit, biển số 51B-xxxxx của ông Đặng T H đế sử dụng kinh doanh vận tải. Sau khi nhận được các xe trên, L không thanh toán tiền thuê xe đầy đủ mà tiến hành ngắt định vị xe, thay đổi số điện thoại liên lạc rồi đem 02 xe ô tô nêu trên thế chấp trái phép cho Trần Hữu Th nhằm cấn trừ khoản nợ 60.000.000 đồng và vay nợ 300.000.000 đồng. Sau đó, L cố tình trốn tránh, chủ động cắt liên lạc và không trả lại 02 xe ô tô trên cho các chủ sở hữu. Tại bản Kết quả định giá tài sản số 2457/KL-HĐĐGTS ngày 29/4/2020 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự cấp T phố, kết luận: xe ô tô biển số 51G-xxxxx trị giá 854.287.500 đồng, xe ô tô biển số 51B-xxxxx trị giá 506.667.000 đồng. Tổng trị giá 02 xe ô tô trên là 1.360.954.000 đồng.

Bị cáo đã lợi dụng sự tin tưởng của các bị hại để giao tài sản cho bị cáo chiếm giữ, sau khi chiếm giữ được tài sản bị cáo không thực hiện đúng như cam kết mà sử dụng các thủ đoạn khác để chiếm đoạt tài sản của bị hại rồi cắt liên lạc, trốn tránh không trả lại tài sản. Tổng tài sản bị cáo đã chiếm đoạt là giá trị 02 xe ô tô với số tiền là 1.360.954.000 đồng. Với các hành vi trên, xét đã có cơ sở để kết tội bị cáo Phan Thắng L phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo khoản 4 Điều 175 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Bản cáo trạng đã truy tố và lời luận tội của kiểm sát viên tại phiên tòa hôm nay là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến tài sản của tổ chức, cá nhân được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Bản thân bị cáo nhận thức được việc làm của mình là vi phạm pháp luật, nhưng xuất phát từ động cơ tư lợi, muốn có tiền tiêu xài một cách dễ dàng nên bị cáo đã cố ý phạm tội. Trong vụ án này, bị cáo đã 02 lần thực hiện hành vi phạm tội bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Vì vậy, cần thiết phải xử phạt bị cáo với mức án tương xứng thì mới có tác dụng giáo dục riêng và răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: quá trình điều tra và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; đại diện Công ty E không yêu cầu bị cáo bồi thường và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; bị cáo đã tác động gia đình chủ động trả lại tiền cho bên nhận cầm cố nhằm chuộc xe trả cho bị hại, mặc dù chưa thu hồi được xe, nhưng thể hiện bị cáo đã có thiện chí mong muốn khắc phục hậu quả; hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn. Vì vậy, xét có thể áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ cho bị cáo Phan Thắng L một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

Đối với Trần Hữu Th, mặc dù không hứa hẹn trước và biết rõ Phan Thắng L không phải là chủ sở hữu hợp pháp của xe ô tô nhãn hiệu Mitsubishi Outlander, biển số 51G-xxxxx và xe ô tô nhãn hiệu Ford Transit, biển số 51B- xxxxx nhưng Th vẫn thực hiện nhận thế chấp trái phép, sử dụng 02 xe ô tô trên thế chấp lại cho 02 cá nhân khác không rõ lai lịch. Khi thế chấp 02 xe ô tô, Th vẫn nhiều lần yêu cầu L giao số tiền 400.000.000 đồng để được nhận lại xe mặc dù Th không còn quản lý, sử dụng. Khi nhận đủ số tiền 400.000.000 đồng, Th đã không hoàn trả xe cho L. Hnh vi trên của Trần Hữu Th đã có dấu hiệu tội phạm. Tuy nhiên, ngày 17/9/2021, Th đã chết vì bị nhiễm Covid-19 nên Cơ quan điều tra không xử lý là có căn cứ.

Đối với Nguyễn Ngọc H: H là bạn nên đứng tên Giám đốc Công ty Hà Anh từ tháng 02/2017 giúp cho Phan Thắng L, nhưng thực chất mọi hoạt động kinh doanh của công ty đều do L quản lý, điều hành, H không được hưởng lợi gì. Cơ quan điều tra không xử lý là có căn cứ.

Đối với bà Phan Kim T: ngày 11/9/2019, T điện thoại yêu cầu Đặng Anh T1 nhận từ Đặng Anh T2 (anh của T1) số tiền 400.000.000 đồng đưa cho Th để nhận xe về trả cho các ông T và Hải. Ngày 09/9/2019, T1 đã đưa số tiền 400.000.000 đồng cho Th, nhưng sau đó không Th không trả lại xe. Do Th đã chết và việc T chuyển tiền cho Th thông qua T1 là hoàn toàn tự nguyện. Đây là giao dịch dân sự khác, không liên quan trực tiếp đến hành vi phạm tội của Phan Thắng L, nếu các bên có tranh chấp thì được quyền yêu cầu giải quyết bằng một vụ kiện dân sự khác.

[6] Về trách nhiệm dân sự: ông Đặng Phước T đại diện Công ty TNHH Phân phối và Xuất nhập khẩu E xác nhận: ngày 27/01/2022, ông T đã tự đi chuộc chiếc xe ô tô biển số 51G-xxxxx về quản lý, sử dụng cho đến nay. Ông T không yêu cầu bị cáo Phan Thắng L phải bồi thường thêm khoản nào khác. Vì vậy, Hội đồng xét xử ghi nhận không buộc bị cáo phải bồi thường về trách nhiệm dân sự cho Công ty TNHH Phân phối và Xuất nhập khẩu E.

Ông Đặng T H yêu cầu bị cáo phải bồi thường trị giá xe ô tô biển số 51B-xxxxx bị chiếm đoạt không thu hồi được là 506.667.000 đồng nên căn cứ Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 buộc bị cáo còn phải trả lại cho ông Hải số tiền trên.

[7] Về xử lý vật chứng: căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Đối với 01 điện thoại di động hiệu Wiko thu giữ của Phan Thắng L không liên quan đến hành vi phạm tội, không phải là tài sản do phạm tội mà có nên trả lại cho bị cáo.

[8] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 4 Điều 175; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Phan Thắng L 13 (mười ba) năm tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 18/02/2022.

Căn cứ Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:

- Ghi nhận không buộc bị cáo phải bồi thường về trách nhiệm dân sự cho Công ty TNHH Phân phối và Xuất nhập khẩu E.

- Buộc bị cáo Phan Thắng L phải bồi thường cho ông Đặng T Hải số tiền 506.667.000 (năm trăm linh sáu triệu sáu trăm sáu mươi bảy nghìn) đồng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015.

Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Trả lại cho bị cáo Phan Thắng L: 01 cái điện thoại di động, nhãn hiệu Wiko, màu trắng, đã qua sử dụng, số imei 351577070620952, 351577070650959, được niêm phong, dán kín có chữ ký tên xác nhận của Phan Thắng L, đề ngày 26/02/2021.

(Theo biên bản giao nhận tang tài vật số NK2023/010 ngày 12/10/2022 của Cục Thi hành án dân sự T phố Hồ Chí Minh).

Căn cứ Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và 24.266.680 (hai mươi bốn triệu hai trăm sáu mươi sáu nghìn sáu trăm tám mươi) đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi bổ sung năm 2014 (sau đây gọi tắt là Luật thi hành án dân sự) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a, Điều 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo, bị hại có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

20
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 540/2022/HS-ST

Số hiệu:540/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/11/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về