Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 53/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN RANG - THÁP CHÀM, TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 53/2022/HS-ST NGÀY 11/05/2022 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 11 tháng 5 năm 2022, tại Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 31/2022/TLST-HS ngày 22 tháng 3 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 35A/2022/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 4 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 09/2022/HSST-QĐ ngày 06 tháng 5 năm 2022 đối với bị cáo:

ĐỖ KIM C, sinh năm 1975 tại Ninh Thuận. Hộ khẩu thường trú: Khu phố 4, phường Đ, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận; nghề nghiệp: Nuôi tôm; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Đ (đã chết) và bà Lê Thị M, sinh năm: 1933; có vợ nhưng đã ly hôn và 03 người con, lớn nhất sinh năm 2001, nhỏ nhất sinh năm 2011.

Tiền sự, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 10/5/2021, bị Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận xử phạt 18 tháng tù về tội “Đánh bạc”, bị cáo đang chấp hành án tại Trại giam Sông Cái – Bộ Công an. (có mặt tại phiên tòa)

* Bị hại: Bà Lê Thị Minh T, sinh năm: 1970.

Địa chỉ: Khu phố 6, phường P, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận. (có mặt)

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Trương Minh T, sinh năm: 1993.

Địa chỉ: Khu phố 6, phường P, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận. (vắng mặt)

2. Anh Đinh Tấn V, sinh năm: 1992.

Địa chỉ: Khu phố 2, phường P, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận. (vắng mặt)

3. Bà Bùi Thị Bích V, sinh năm: 1975.

Địa chỉ: Khu phố 7, phường T, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận. (vắng mặt)

* Người làm chứng: Ông Tạ Tân T, sinh năm 1980.

Địa chỉ: Khu phố 5, phường P, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Giữa Đỗ Kim C và bà Lê Thị Minh T có quan hệ tình cảm với nhau. Vào khoảng 17 giờ 00 ngày 07/3/2020, Đỗ Kim C đến nhà bà T hỏi mượn xe mô tô hiệu Honda SH150i biển kiểm soát 85B1-677.30 để đi công việc và hẹn đến 21 giờ cùng ngày sẽ trả lại xe thì được bà T đồng ý cho mượn. Sau đó, C điều khiển xe mô tô đi nhậu với bạn là anh Tạ Tân T. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, C chở anh T đến nhà bà Bùi Thị Bích V để nhậu tiếp. Trong lúc ngồi nhậu, thấy Đinh Tuấn V đang ngồi chơi đánh bài ăn tiền với một số thanh niên khác (không rõ nhân thân, lai lịch) tại nhà bà V, C đã vay bà V số tiền là 33.000.000 đồng (ba mươi ba triệu đồng) để tham gia đánh bạc. Quá trình đánh bạc, do thua tiền Đinh Tuấn V nên đến sáng ngày 08/3/2020, C đã đưa xe mô tô hiệu Honda SH150i biển kiểm soát 85B1-677.30 cùng chìa khóa xe cho V và hẹn vài ngày sau sẽ trả tiền cho V rồi lấy lại xe. Tuy nhiên, sau đó, C không trả tiền cho V để lấy lại xe như đã thỏa thuận, cũng không thông báo cho bà T biết. Sau khi nhận chiếc xe trên, anh V đã nhiều lần gọi điện thoại yêu cầu C trả tiền để chuộc lại xe nhưng C không thực hiện và hứa hẹn nhiều lần nên anh V đã bán chiếc xe mô tô 85B1- 677.30 cho một người đàn ông (không rõ lai lịch) với giá 20 triệu đồng. Về phía bà T, nhiều lần liên lạc yêu cầu C trả xe nhưng C đã nói dối xe bị Công an giao thông tạm giữ để trốn tránh. Đến ngày 27/11/2020, bà Lê Thị Minh T đã làm đơn tố giác hành vi chiếm đoạt tài sản của Đỗ Kim C.

Quá trình điều tra xác định, chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda SH150i mang biển kiểm soát 85B1-677.30 do anh Trương Minh T (là con trai bà T) đứng tên chủ sở hữu. Do anh T đi làm xa nên giao chiếc xe mô tô trên do bà T quản lý và sử dụng làm phương tiện cá nhân.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 01 ngày 05/01/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự TP.Phan Rang – Tháp Chàm, kết luận: “Xe mô tô nhãn hiệu HONDA SH150I, màu đen, biển kiểm soát 85B1-677.30 vào thời điểm ngày 07 tháng 3 năm 2020 có giá trị là 95.000.000 đ (Chín mươi lăm triệu đồng)”.

Quá trình điều tra, Đỗ Kim C khai đã cầm cố chiếc xe cho bà V, không cầm cố cho V vì C còn nợ bà V số tiền 23.000.000 đồng nhưng bà V không thừa nhận.

Vật chứng của vụ án: Cơ quan điều tra đã truy tìm xe mô tô hiệu Honda SH150i biển kiểm soát 85B1-677.30 nhưng không thu hồi được.

Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, bà Lê Thị Minh T yêu cầu Đỗ Kim C bồi thường số tiền 45.000.000 đồng, C đồng ý nhưng đang chấp hành án nên chưa bồi thường được, tại phiên tòa bà T không yêu cầu bị cáo bồi nữa. Đối với bà Bùi Thị Bích V trước đây có yêu cầu C trả lại số tiền nợ là 23.000.000 đồng, nhưng giai đoạn điều tra bổ sung bà V không có mặt tại địa phương.

Cáo trạng số: 32/CT–VKSPRTC ngày 14/3/2022 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm truy tố bị cáo Đỗ Kim C về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Rang – Tháp Chàm giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm c khoản 2 điều 175, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 56 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Xử phạt bị cáo Đỗ Kim C từ 24 tháng đến 30 tháng tù và tổng hợp với bản án số 76/2021/HSST ngày 10 tháng 5 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận.

- Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu nên đề nghị không xem xét. Tách phần yêu cầu của bà V bằng 1 vụ án khác khi bà V có yêu cầu.

Bị cáo không tranh luận.

Bị hại không tranh luận gì nhưng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thấy hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp chàm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Đỗ Kim C đã khai nhận việc mượn xe, thế chấp xe và không trả được xe của mình như bản cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các chứng cứ đã được thu thập tại hồ sơ vụ án, đủ cơ sở để xác định: Ngày 07/03/2020, bị cáo đã mượn xe mô tô hiệu Honda SH150i biển kiểm soát 85B1-677.30 của bà Lê Thị Minh T và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản, giá trị xe mô tô hiệu Honda SH150i biển kiểm soát 85B1-677.30 tại thời điểm ngày 07/03/2020 là 95.000.000đ nên hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 175 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Rang – Tháp Chàm truy tố về tội danh và khung hình phạt trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng xét nhân thân bị cáo trước đó đã bị khởi tố về hành vi đánh bạc, không lấy đó làm bài học kinh nghiệm mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, mà còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo là người đã thành niên, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện, nên bị cáo phải chịu trách nhiệm về hành vi phạm tội của mình gây ra. Do đó cần phải xử lý nghiêm trước pháp luật, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo; ông ngoại bị cáo là cụ Lê Phước Th, cậu ruột bị cáo là ông Lê Văn Y đều là liệt sỹ, bà ngoại bị cáo là cụ Nguyễn Thị Ch là Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điếm khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Vì vậy, Hội đồng xét xử cũng cần xem xét khi lượng hình đối với bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa, bị hại bà Lê Thị Minh T không yêu cầu bị cáo bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về vật chứng của của vụ án: Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã truy tìm xe mô tô hiệu Honda SH150i biển kiểm soát 85B1-677.30 nhưng không thu hồi được, nếu sau này phát hiện sẽ xử lý sau.

[7] Bản án số 76/2021/HS-ST ngày 10/5/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận đã có hiệu lực pháp luật nên Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56 của Bộ luật Hình sự để tổng hợp hình phạt chung cho hai bản án.

[8] Đối với hành vi Đinh Tuấn V đã bán chiếc xe mô tô biển số 85B1- 677.30 cho một người đàn ông (không rõ nhân thân lai lịch) khi không có giấy tờ hợp pháp. Tuy nhiên, anh V không biết chiếc xe mô tô trên là do C chiếm đoạt của bà Lê Thị Minh T, đồng thời Cơ quan Cảnh sát điều tra chưa xác định được người đã mua chiếc xe từ anh V để thu hồi nên chưa đủ căn cứ để xử lý về hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là đúng quy định.

[9] Đối với hành vi đánh bạc giữa Đỗ Kim C và anh Đinh Tuấn V tại nhà bà Bùi Thị Bích V. Qua làm việc, bà V không biết việc đánh bạc ăn thua bằng tiền giữa C và anh V. Mặc dù, theo lời khai, số tiền đánh bạc giữa anh V và C là 60.000.000 đồng nhưng Cơ quan Cảnh sát điều tra chưa xác định được những người đã tham gia cùng đánh bạc nên chưa đủ tài liệu, chứng cứ để làm rõ hành vi đánh bạc xảy ra ngày 07/3/2020 tại nhà bà V. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra tiếp tục điều tra làm rõ và đề nghị xử lý sau là phù hợp.

[10] Đối với yêu cầu của bà Bùi Thị Bích V về việc buộc bị cáo phải trả lại số tiền đã mượn là 23.000.000đ. Sau khi trả hồ sơ điều tra bổ sung, bà V vắng mặt tại nơi cư trú, địa phương không biết bà V đi đâu, làm gì nên HĐXX tách phần yêu cầu của bà V để giải quyết bằng một vụ án dân sự khác khi bà V có yêu cầu.

[11] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm c khoản 2 Điều 175; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 56 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Tuyên bố: Bị cáo Đỗ Kim C phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Đỗ Kim C 02 (hai) năm tù. Tổng hợp hình phạt của Bản án hình sự số: 76/2021/HS-ST ngày 10/5/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận, buộc bị cáo Đỗ Kim C phải chấp hành hình phạt chung cho hai bản án là 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 21/4/2021.

Về án phí: Bị cáo Đỗ Kim C phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo, bị hại quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

99
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 53/2022/HS-ST

Số hiệu:53/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về