Bản án về tội lạm dụng tín nhiếm chiếm đoạt tài sản số 53/2021/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 53/2021/HS-PT NGÀY 11/03/2022 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIẾM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Trong các ngày 04 và 11 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 16/2021/TLPT- HS ngày 03 tháng 02 năm 2021 đối với bị cáo Trần Ngọc D, do có kháng cáo của bị cáo Trần Ngọc D; các bị hại Nguyễn Lâm Khánh B, Trần Thị D, Trần Thị T, Trần Thanh T, Võ Thị Đ, Nguyễn thị Thu H, Mai Thị H, Nguyễn Thị T, Phạm Thị H, Đỗ Thị L, Huỳnh Út A, Phan Thị B, Dương Thị H, Nguyễn Thị M, Mai Thị Á, Võ Thị K, Nguyễn Thị B và người có quyền lợi liên quan Lê Thị Đ, Mai Thị X, Võ Thị V, Nguyễn Thị D đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 27/2020/HS-ST ngày 30/10/2020 của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Thuận, tỉnh Kiên Giang.

- Bị cáo có kháng cáo: Trn Ngọc D, sinh năm 1980 tại huyện Vĩnh Thuận, tỉnh Kiên Giang; Nơi cư trú: ấp CC, xã VP, huyện VT, tỉnh Kiên Giang; Nghề nghiệp: làm thuê; Trình độ văn hoá: 6/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: nữ; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Thanh Hòn và bà Võ Thị Ba; Có chồng Đoàn Trung Hiếu; Có 03 con, lớn nhất sinh năm 2006, nhỏ nhất sinh năm 2020;Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại (Có mặt tại phiên tòa).

* Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Hồ Hoàng Ph - Văn phòng Luật sư Hồ Hoàng Ph thuộc Đoàn Luật sư tỉnh An Giang (Có mặt).

Địa chỉ: 1058 Trần Hưng Đ, tổ 1, khóm Bình L x, phường Mỹ B, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.

- Bị hại có kháng cáo:

1. Trần Thị D, sinh năm 1988 (Có mặt);

Nơi cư trú: ấp NQ, xã ĐT, huyện AB, tỉnh Kiên Giang;

2. Đỗ Thị L, sinh năm 1981 (Có mặt);

3. Mai Thị Á, sinh năm 1944 (Có mặt);

4. Huỳnh Út A, sinh năm 1990 (Có mặt);

5. Nguyễn Lâm Khánh B, sinh năm 1990 (Có mặt);

6. Phan Thị B, sinh năm 1987 (Có mặt);

7. Dương Thị H, sinh năm 1961 (Có mặt);

8. Nguyễn Thị M, sinh năm 1958 (Có mặt);

9. Trần Thị T, sinh năm 1980 (Có mặt);

10. Trần Thanh T, sinh năm 1980 (Có mặt);

11. Nguyễn Thị B, sinh năm 1977 (Vắng, có đơn yêu cầu xét xử văng mặt);

Nơi cư trú: ấp CC, xã VP, huyện VT, tỉnh Kiên Giang.

12. Võ Thị K, sinh năm 1983 (Vắng, có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt);

13. Võ Thị Đ, sinh năm 1966 (Có mặt);

14. Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1962 (Có mặt);

Nơi cứ trú: ấp Cạnh Đ 1, xã Vĩnh Ph, huyện Vĩnh Thuận, tỉnh Kiên Giang.

15. Mai Thị H, sinh năm 1957 (Có mặt);

16. Nguyễn Thị T, sinh năm 1974 (Có mặt);

Nơi cư trú: ấp NL2, xã NTL, huyện HD, tỉnh Bạc Liêu.

17. Phạm Thị H, sinh năm 1973 (Có mặt);

Nơi cư trú: ấp PT, xã pL, huyện PL- Bạc Liêu;

- Người có quyền lợi liên quan có kháng cáo:

1. Võ Thị V, sinh năm 1961 (Có mặt);

2. Nguyễn Thị D, sinh năm 1980 (Có mặt)

3. Lê Thị Đ, sinh năm 1982 (Có mặt);

4. Mai Thị X, sinh năm 1983 (Có mặt);

Nơi cư trú: ấp CC, xã VP, huyện VT, tỉnh Kiên Giang.

* Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại và người có quyền lợi lien quan Mai Thị H, Lê Thị Đ, Trần Thị T, Trần Thanh T, Phan Thị B và Phạm Thị H: Ông Phạm Văn C - Luật sư, Văn phòng Luật sư Phạm Văn C thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Kiên Giang (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Ngọc D bắt đầu làm chủ hụi từ năm 2014, lúc đầu việc chơi hụi thực hiện đúng như thỏa thuận nên được mọi người tin tưởng. Từ năm 2017 đến khi dừng hụi vào ngày 12/11/2018 thì D mở nhiều dây hụi và mời nhiều người cùng tham gia chơi (loại hụi 200.000đ một tháng mở hụi 03 lần; hụi 500.000đ và 1.000.000đ một tháng mở hụi 01 lần). Trong quá trình làm chủ hụi cho đến khi dừng hụi ngày 12/11/2018 D đã có hành vi dùng thủ đoạn gian dối như tự ý lấy một số chân hụi của hụi viên bán cho người khác; một số hụi viên chưa kêu hụi để hốt mà D tự ý kêu các chân hụi của các hụi viên này để mình hốt hụi nhưng không thông qua các hụi viên, khi có hụi viên hỏi thì D nói là có người hốt rồi nhưng thực chất là D hốt; lợi dụng sự tin tưởng của các hụi viên khi hụi viên kêu hụi hốt và mãn hụi D đã gom tiền của những hụi viên khác đầy đủ nhưng không giao hoặc giao không đủ cho hụi viên được hốt và nói dối là gom tiền không đủ để chiếm đoạt tiền sử dụng vào mục đích cá nhân. Với phương thức trên D đã chiếm đoạt tiền của các hụi viên được thể hiện trong các dây hụi như sau:

1/ Dây hụi áp ngày 30/6/2017 (âm lịch), hụi 200.000đ, có 52 chân, dây hụi này đến ngày 30/10/2018 âm lịch thì mãn hụi. D đã tự ý lấy 01 chân hụi của hụi viên bán, lấy 02 chân hụi của hụi viên để hốt và không giao hoặc giao không đủ tiền cho những hụi viên kêu hốt và mãn hụi. Số tiền D chiếm đoạt của các hụi viên có đơn yêu cầu như sau:

- Trần Thị D: Trong dây hụi này D mua 02 chân, trong đó 01 chân D tự ý lấy của Nguyễn Lâm Kháng B bán cho D với số tiền 5.450.000đ. Do đó, D đã chiếm đoạt của Diền 5.450.000đ.

- Mai Thị H: Tham gia 02 chân chưa hốt, D đã tự ý kêu 02 chân hụi của H để hốt sau đó bù tiền vào đóng hụi sống, đến mãn hụi H hốt được số tiền 19.800.000đ, D chỉ giao 2.000.000đ, chiếm đoạt của H 17.800.000đ.

- Mai Thị Á: Tham gia 01 chân đến mãn hụi hốt được số tiền 10.100.000đ, D gom tiền đủ nhưng không giao cho Á.

- Nguyễn Thị T: Tham gia 02 chân, kêu hốt 01 chân D giao tiền còn thiếu 6.300.000đ, 01 chân mãn hụi được hốt số tiền 9.900.000đ, D đã gom tiền đủ nhưng không giao cho T.

- Nguyễn Thị Bé N: Tham gia 02 chân, kêu hốt được số tiền 18.845.000đ, D giao được 2.970.000đ, chiếm đoạt Bé N 15.875.000đ.

- Nguyễn Lâm Khánh B: Tham gia 02 chân, 01 chân đã hốt, 01 chân đến mãn hụi được hốt số tiền 9.100.000đ, D đã gom tiền đủ nhưng không giao cho Bằng.

- Nguyễn Lâm Khánh B: Tham gia 02 chân đến mãn hụi được hốt số tiền 18.200.000đ, D gom tiền đủ nhưng không giao cho B.

- Lâm Thị T: Tham gia 02 chân đến mãn hụi được hốt số tiền 18.200.000đ, D gom tiền đủ nhưng không giao cho bà T.

- Phan Thị B: Tham gia 03 chân kêu hốt được số tiền 29.100.000đ, D giao được số tiền 7.000.000đ, chiếm đoạt B số tiền 22.100.000đ.

- Lê Thị N: Tham gia 02 chân kêu hốt được số tiền 18.240.000đ, D gom tiền đủ nhưng không giao cho N.

Vậy trong dây hụi này D đã có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tiền của các hụi viên là 5.450.000đ và có hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tiền của các hụi viên là 145.815.000đ.

2/ Dây hụi áp ngày 04/7/2017 (âm lịch), hụi 200.000đ, có 50 chân, dây hụi này đến ngày 14/11/2018 âm lịch thì mãn hụi. D đã tự ý lấy 04 chân hụi của hụi viên để hốt và D không giao tiền cho những hụi viên kêu hốt và mãn hụi chiếm đoạt tiền của các hụi viên có đơn yêu cầu, cụ thể như sau:

- D tự ý hốt 03 chân hụi của Mai Thị H:

+ 01 chân thời điểm có 10 chân chết, 40 chân sống, D bỏ 120.000đ và hốt được số tiền 5.100.000đ, D bù tiền vào đóng hụi chết với số tiền 3.900.000đ nên D đã chiếm đoạt 40 chân hụi sống với số tiền 1.200.000đ, chiếm đoạt mỗi chân hụi sống số tiền 30.000đ. Do đó, D đã chiếm đoạt tổng số tiền 90.000đ của hụi viên Mai Thị H (03 chân).

+ 01 chân thời điểm có 11 chân chết, 39 chân sống, D bỏ 120.000đ và hốt được số tiền 5.300.000đ, D bù tiền vào đóng hụi chết với số tiền 3.800.000đ nên D đã chiếm đoạt 39 chân hụi sống với số tiền 1.500.000đ, chiếm đoạt mỗi chân hụi sống số tiền 38.461đ. Do đó, D đã chiếm đoạt tổng số tiền 115.383đ của hụi viên Mai Thị H (03 chân).

+ 01 chân thời điểm có 12 chân chết, 38 chân sống, D bỏ 120.000đ và hốt được số tiền 5.500.000đ, D bù tiền vào đóng hụi chết với số tiền 3.700.000đ nên D đã chiếm đoạt 38 chân hụi sống với số tiền 1.800.000đ, chiếm đoạt mỗi chân hụi sống số tiền 47.368đ. Do đó, D đã chiếm đoạt tổng số tiền 142.104đ của hụi viên Mai Thị H (03 chân).

- 01 chân hụi của Mỹ N: thời điểm có 09 chân chết, 41 chân sống, D bỏ 110.000đ và hốt được số tiền 5.600.000đ, D bù tiền vào đóng hụi chết với số tiền 4.000.000đ nên D đã chiếm đoạt 41 chân hụi sống với số tiền 1.600.000đ, chiếm đoạt mỗi chân hụi sống số tiền 39.024đ. Mỹ N không yêu cầu xử lý, do đó D đã chiếm đoạt tổng số tiền 117.072đ của hụi viên Mai Thị H (03 chân).

- Trần Thanh T: Tham gia 01 chân kêu hốt được số tiền 8.850.000đ, D gom tiền đủ nhưng không giao cho T, sau đó thỏa thuận khấu trừ tiền qua lại D còn thiếu số tiền 7.050.000đ.

- Trần Thị D: Tham gia 02 chân kêu hốt được số tiền 19.000.000đ, D gom tiền đủ nhưng không giao cho D.

- Nguyễn Thị T: Tham gia 02 chân mãn hụi được hốt số tiền 18.500.000đ, D gom tiền đủ nhưng không giao cho T.

Vậy trong dây hụi này D đã có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tiền của các hụi viên là 464.559đ và có hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tiền của các hụi viên là 44.550.000đ.

3/ Dây hụi áp ngày 12/9/2017 (âm lịch), dây số 1, hụi 200.000đ, có 48 chân, dây hụi này đến ngày 02/01/2019 âm lịch thì mãn hụi. D đã tự ý lấy 05 chân hụi của hụi viên để hốt và D giao tiền không đủ cho các hụi viên kêu hốt. Số tiền D chiếm đoạt của các hụi viên có đơn yêu cầu như sau:

- Phan Thị B: Tham gia 02 chân, D đã tự ý hốt 02 chân hụi của bà B, cụ thể như sau:

+ 01 chân thời điểm có 30 chân chết, 18 chân sống, Dớt bỏ 68.000đ và hốt được số tiền 8.276.000đ, D bù tiền vào đóng hụi chết với số tiền 1.800.000đ nên D đã chiếm đoạt 18 chân hụi sống với số tiền 6.476.000đ, chiếm đoạt mỗi chân hụi sống số tiền 359.777đ. Do đó, D đã chiếm đoạt tổng số tiền 4.317.324đ của các hụi viên gồm Phan Thị B số tiền 719.554đ (02 chân), Trần Thanh T số tiền 1.079.331đ (03 chân), Mai Thị Á số tiền 359.777đ (01 chân), Nguyễn Thị Thu H số tiền 359.777đ (01 chân), Nguyễn Thị T số tiền 359.777đ (01 chân), Đỗ Thị L số tiền 359.777đ (01 chân), Nguyễn Lâm Khánh B số tiền 719.554đ (02 chân) và Trần Thị T số tiền 359.777đ.

+ 01 chân thời điểm có 31 chân chết, 17 chân sống, D bỏ 70.000đ và hốt được số tiền 8.310.000đ, D bù tiền vào đóng hụi chết với số tiền 1.650.000đ nên D đã chiếm đoạt 17 chân hụi sống với số tiền 6.660.000đ, chiếm đoạt mỗi chân hụi sống số tiền 391.764đ. Do đó, D đã chiếm đoạt tổng số tiền 4.701.168đ của các hụi viên gồm Phan Thị B số tiền 783.528đ (02 chân), Trần Thanh T số tiền 1.175.292đ (03 chân), Mai Thị Á số tiền 391.764đ (01 chân), Nguyễn Thị Thu H số tiền 391.764đ (01 chân), Nguyễn Thị T số tiền 391.764đ (01 chân), Đỗ Thị L số tiền 391.764đ (01 chân), Nguyễn Lâm Khánh B số tiền 783.528đ (02 chân) và Trần Thị T số tiền 391.764đ.

- Trần Thị T: 01 chân thời điểm có 20 chân chết, 28 chân sống, D bỏ 121.000đ và hốt được số tiền 6.000.000đ, D bù tiền vào đóng hụi chết với số tiền 3.300.000đ nên D đã chiếm đoạt 28 chân hụi sống với số tiền 2.700.000đ, chiếm đoạt mỗi chân hụi sống số tiền 96.428đ, T không yêu cầu xử lý. Do đó, D đã chiếm đoạt tổng số tiền 1.154.136đ của các hụi viên gồm Phan Thị B số tiền 192.856đ (02 chân), Trần Thanh T số tiền 286.284đ (03 chân), Mai Thị Á số tiền 96.428đ (01 chân), Nguyễn Thị Thu H số tiền 96.428đ (01 chân), Nguyễn Thị T số tiền 96.428đ (01 chân), Đỗ Thị L số tiền 96.428đ (01 chân), Nguyễn Lâm Khánh B số tiền 192.856đ (02 chân) và Trần Thị T số tiền 96.428đ.

- Mai Thị Á: 01 chân thời điểm có 21 chân chết, 27 chân sống, D bỏ 118.000đ và hốt được số tiền 6.314.000đ, D bù tiền vào đóng hụi chết với số tiền 3.150.000đ nên D đã chiếm đoạt 27 chân hụi sống với số tiền 3.164.000đ, chiếm đoạt mỗi chân hụi sống số tiền 117.185đ. Do đó, D đã chiếm đoạt tổng số tiền 1.406.220đ của các hụi viên gồm Phan Thị B số tiền 234.370đ (02 chân), Trần Thanh T số tiền 351.555đ (03 chân), Mai Thị Á số tiền 117.185đ (01 chân), Nguyễn Thị Thu H số tiền 117.185đ (01 chân), Nguyễn Thị T số tiền 117.185đ (01 chân), Đỗ Thị L số tiền 117.185đ (01 chân), Nguyễn Lâm Khánh B số tiền 234.370đ (02 chân) và Trần Thị T số tiền 117.185đ.

- Nguyễn Thị Thu H: 01 chân thời điểm có 22 chân chết, 26 chân sống, D bỏ 130.000đ và hốt được số tiền 6.120.000đ, D bù tiền vào đóng hụi chết với số tiền 3.000.000đ nên D đã chiếm đoạt 26 chân hụi sống với số tiền 3.120.000đ, chiếm đoạt mỗi chân hụi sống số tiền 120.000đ. Do đó, D đã chiếm đoạt tổng số tiền 1.440.000đ của các hụi viên gồm Phan Thị B số tiền 240.000đ (02 chân), Trần Thanh T số tiền 360.000đ (03 chân), Mai Thị Á số tiền 120.000đ (01 chân), Nguyễn Thị Thu H số tiền 120.000đ (01 chân), Nguyễn Thị T số tiền 120.000đ (01 chân), Đỗ Thị L số tiền 120.000đ (01 chân), Nguyễn Lâm Khánh B số tiền 240.000đ (02 chân) và Trần Thị T số tiền 120.000đ.

- Trần Thị T: Tham gia 01 chân kêu hốt được số tiền 7.840.000đ, D giao được số tiền 3.580.000đ, chiếm đoạt T số tiền 4.260.000đ.

- Võ Thị K: Tham gia 01 chân kêu hốt được số tiền 7.500.000đ, D giao được số tiền 2.000.000đ, chiếm đoạt Kiều số tiền 5.500.000đ.

Vậy trong dây hụi này D đã có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tiền của các hụi viên là 13.018.848đ và có hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tiền của các hụi viên là 9.760.000đ.

4/ Dây hụi áp ngày 12/9/2017 (âm lịch), dây số 2, hụi 200.000đ, có 48 chân, dây hụi này đến ngày 02/01/2019 âm lịch thì mãn hụi. D đã tự ý lấy 02 chân hụi của hụi viên để hốt và D giao tiền không đủ cho hụi viên kêu hốt. Số tiền D chiếm đoạt của các hụi viên có đơn yêu cầu như sau:

- Nguyễn Lâm Khánh B: 01 chân thời điểm có 05 chân chết, 43 chân sống, D bỏ 100.000đ và hốt được số tiền 5.200.000đ, D bù tiền vào đóng hụi chết với số tiền 4.810.000đ nên D đã chiếm đoạt 43 chân hụi sống với số tiền 390.000đ, chiếm đoạt mỗi chân hụi sống số tiền 9.069đ. Do đó, D đã chiếm đoạt tổng số tiền 81.621đ của các hụi viên gồm Trần Thanh T số tiền 27.207 đồng (03 chân), Nguyễn Lâm Khánh B số tiền 18.138đ (02 chân), Nguyễn Lâm Khánh B số tiền 9.069đ (01 chân), Nguyễn Thị Thu H số tiền 9.069đ (01 chân), Nguyễn Thị T số tiền 9.069đ (01 chân), Lê Thị N số tiền 9.069đ (01 chân).

- Nguyễn Lâm Khánh B: 01 chân thời điểm có 06 chân chết, 42 chân sống, D bỏ 100.000đ và hốt được số tiền 5.300.000đ, D bù tiền vào đóng hụi chết với số tiền 4.680.000đ nên D đã chiếm đoạt 42 chân hụi sống với số tiền 620.000đ, chiếm đoạt mỗi chân hụi sống số tiền 14.761đ. Do đó, D đã chiếm đoạt tổng số tiền 132.849đ của các hụi viên gồm Trần Thanh T số tiền 44.283đ (03 chân), Nguyễn Lâm Khánh B số tiền 29.522đ (02 chân), Nguyễn Lâm Khánh B số tiền 14.761đ (01 chân), Nguyễn Thị Thu H số tiền 14.761đ (01 chân), Nguyễn Thị T số tiền 14.761đ (01 chân), Lê Thị N số tiền 14.761đ (01 chân).

- Đỗ Thị L: Tham gia 01 chân kêu hốt được số tiền 7.600.000đ, D giao được số tiền 2.000.000đ, chiếm đoạt của L số tiền 5.600.000đ.

Vậy trong dây hụi này D đã có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tiền của các hụi viên là 214.470đ và có hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tiền của hụi viên là 5.600.000đ.

5/ Dây hụi áp ngày 09/3/2018 (âm lịch), hụi 200.000đ, có 60 chân, dây hụi này đến ngày 09/11/2019 âm lịch thì mãn hụi. D đã tự ý lấy 05 chân hụi của hụi viên bán cho người khác. Số tiền D chiếm đoạt của các hụi viên có đơn yêu cầu như sau:

- Nguyễn Thị T: D tự ý lấy 01 chân hụi của Đỗ Thị L bán cho T với số tiền 5.630.000đ. Do đó, D đã chiếm đoạt của T số tiền 5.630.000đ.

- Huỳnh Út A: Trong dây hụi này, A tham gia 03 chân, trong đó D đã nói dối với A là có người bán 02 chân hụi nhưng thực tế không có ai bán, A đã mua 02 chân hụi này với số tiền 11.830.000đ. Do đó, D đã chiếm đoạt của A số tiền 11.830.000đ.

- Võ Thị Đ: D tự ý lấy 01 chân hụi của Võ Ngọc T bán cho Đ với số tiền 5.870.000đ. Do đó, D đã chiếm đoạt của Đ số tiền 5.870.000đ.

- Dương Thị H: D tự ý lấy 01 chân hụi của Võ Ngọc T bán cho H với số tiền 5.640.000đ. Do đó, D đã chiếm đoạt của H số tiền 5.640.000đ.

Vậy trong dây hụi này D đã có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tiền của các hụi viên là 28.970.000đ.

6/ Dây hụi áp ngày 15/6/2018 (âm lịch), hụi 200.000đ, có 82 chân, dây hụi này đến ngày 15/9/2021 âm lịch thì mãn hụi. D đã tự ý lấy 02 chân hụi của hụi viên bán cho người khác. Số tiền D chiếm đoạt của các hụi viên có đơn yêu cầu như sau:

- Võ Thị Đ: Trong dây hụi này Đ mua 04 chân, trong đó có 01 chân D nói dối là có người bán nhưng thực tế thì không có ai bán để bán cho Định với số tiền 7.200.000đ. Do đó, Dớt đã chiếm đoạt của Định số tiền 7.200.000đ.

- Nguyễn Thị Mãnh: Trong dây hụi này Mãnh mua 01 chân nhưng Dớt nói dối là có người bán nhưng thực tế thì không có ai bán để bán cho M với số tiền 6.800.000đ. Do đó, D đã chiếm đoạt của M số tiền 6.800.000đ.

Vậy trong dây hụi này D đã có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tiền của các hụi viên là 14.000.000đ.

7/ Dây hụi áp ngày 10/12/2017 (âm lịch), hụi 1.000.000đ, có 26 chân, dây hụi này đến ngày 10/01/2020 âm lịch thì mãn hụi. Trong dây hụi này D tự ý lấy 01 chân hụi của Võ Thị V bán cho Nguyễn Thị T với số tiền 14.500.000đ. Do đó, trong dây hụi này D đã có hành vi lừa đảo chiếm đoạt của T số tiền 14.500.000đ.

8/ Dây hụi áp ngày 15/01/2017 (âm lịch), hụi 1.000.000đ, có 20 chân, đến tháng 8/2020 thì mãn hụi, Nguyễn Thị B tham gia 01 chân mãn hụi hốt được số tiền 18.500.000đ, D chỉ giao cho B số tiền 4.000.000đ. Do đó, trong dây hụi này D đã có hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tiền của Bân là 14.500.000đ.

9/ Dây hụi áp ngày 15/10/2017 âm lịch, hụi 200.000đ, có 35 chân, đến tháng 9/2018 thì mãn hụi. Phạm Thị H tham gia 02 chân kêu hốt được số tiền 13.000.000đ, D gom tiền đủ nhưng không giao cho H. Do đó, trong dây hụi này D đã có hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tiền của Hiển là 13.000.000đ.

10/ Dây hụi áp ngày 18/12/2017 âm lịch, hụi 200.000đ, có 29 chân, đến ngày 28/9/2018 thì mãn hụi. Phạm Thị H tham gia 03 chân, đến mãn hụi D đã gom tiền giao cho H được 02 chân với số tiền 10.200.000đ, còn 01 chân D gom tiền đủ nhưng không giao cho H với số tiền 5.100.000đ. Do đó, trong dây hụi này D đã có hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tiền của H là 5.100.000đ.

Như vậy thông qua việc mở 10 dây hụi, Trần Ngọc D đã dùng thủ đoạn gian dối lừa đảo chiếm đoạt số tiền 76.617.877đ và lợi dụng sự tin tưởng của các hụi viên chiếm đoạt số tiền 238.325.000đ,cụ thể như sau:

- Trần Thị D tham gia 02 dây, số tiền bị lừa đảo chiếm đoạt là 5.450.000đ và số tiền bị lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt là 19.000.000đ. Tổng số tiền D bị chiếm đoạt là 24.450.000đ.

- Mai Thị H tham gia 02 dây, số tiền bị lừa đảo chiếm đoạt là 464.559đ và số tiền bị lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt là 17.800.000đ. Tổng số tiền H bị chiếm đoạt là 18.264.559đ.

- Phan Thị B tham gia 02 dây, số tiền bị lừa đảo chiếm đoạt là 2.170.308đ và số tiền bị lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt là 22.100.000đ. Tổng số tiền B bị chiếm đoạt là 24.270.308đ.

- Mai Thị Á tham gia 02 dây, số tiền bị lừa đảo chiếm đoạt là 1.085.154đ và số tiền bị lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt là 10.100.000đ. Tổng số tiền Á bị chiếm đoạt là 11.185.154đ.

- Nguyễn Thị T tham gia 04 dây, số tiền bị lừa đảo chiếm đoạt là 21.238.984đ và số tiền bị lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt là 34.700.000đ. Tổng số tiền T bị chiếm đoạt là 55.938.984đ.

- Nguyễn Thị B N tham gia 01 dây, số tiền bị lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt là 15.875.000đ.

- Nguyễn Lâm Khánh B tham gia 03 dây, số tiền bị lừa đảo chiếm đoạt là 2.217.968đ và số tiền bị lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt là 18.200.000đ. Tổng số tiền B bị chiếm đoạt là 20.417.968đ.

- Nguyễn Lâm Khánh B tham gia 02 dây, số tiền bị lừa đảo chiếm đoạt là 23.830đ và số tiền bị lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt là 9.100.000đ. Tổng số tiền B bị chiếm đoạt là 9.123.830đ.

- Lâm Thị T tham gia 01 dây, số tiền bị lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt là 18.200.000đ.

- Lê Thị N tham gia 02 dây, số tiền bị lừa đảo chiếm đoạt là 23.830đ và số tiền bị lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt là 18.240.000đ. Tổng số tiền N bị chiếm đoạt là 18.263.830đ.

- Trần Thanh T tham gia 03 dây, số tiền bị lừa đảo chiếm đoạt là 3.323.952đ và số tiền bị lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt là 7.050.000đ. Tổng số tiền T bị chiếm đoạt là 10.373.952đ.

- Nguyễn Thị Thu H tham gia 02 dây, số tiền bị lừa đảo chiếm đoạt là 1.108.984đ.

- Trần Thị T tham gia 01 dây, số tiền bị lừa đảo chiếm đoạt là 1.085.154đ và số tiền bị lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt là 4.260.000đ. Tổng số tiền T bị chiếm đoạt là 5.345.154đ.

- Đỗ Thị L tham gia 02 dây, số tiền bị lừa đảo chiếm đoạt là 1.085.154đ và số tiền bị lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt là 5.600.000 đồng. Tổng số tiền L bị chiếm đoạt 6.685.154đ.

- Võ Thị K tham gia 01 dây, số tiền bị lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt là 5.500.000đ. Tổng số tiền K bị chiếm đoạt là 5.500.000đ.

- Huỳnh Út A tham gia 01 dây, số tiền bị lừa đảo chiếm đoạt là 11.830.000đ.

- Võ Thị Đ tham gia 02 dây, số tiền bị lừa đảo chiếm đoạt là 13.070.000đ.

- Dương Thị H tham gia 01 dây, số tiền bị lừa đảo chiếm đoạt 5.640.000đ.

- Nguyễn Thị M tham gia 01 dây, số tiền bị lừa đảo chiếm đoạt là 6.800.000đ.

- Nguyễn Thị B tham gia 01 dây, số tiền bị lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt là 14.500.000đ.

- Phạm Thị H tham gia 02 dây, số tiền bị lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt là 18.100.000đ.

Tại Bản án sơ thẩm số: 27/2020/HSST ngày 30/10/2020 Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Thuận, tỉnh Kiên Giang đã xử:

Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo Trần Ngọc D phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 174; điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Trần Ngọc D 02 năm tù.

Căn cứ khoản 3 Điều 175 Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo Trần Ngọc D phạm tội“Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng khoản 3 Điều 175; điểm b, s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Trần Ngọc D 03 năm tù.

Áp dụng Điều 55 Bộ luật Hình sự tổng hợp hình phạt của hai tội, buộc bị cáo Trần Ngọc D phải chấp hành hình phạt chung là 05 năm tù. Thời điểm chấp hành hình phạt tù được tính kể từ ngày bị cáo được đưa đi chấp hành án.

* Về trách nhiệm dân sự: Những bị hại được nhận số tiền bị cáo khắc phục hậu quả như sau:

+ Bị hại Trần Thị D số tiền 24.450.000đ;

+ Bị hại Đỗ Thị L số tiền 5.576.154đ;

+ Bị hại Mai Thị H số tiền 17.264.559đ;

+ Bị hại Phan Thị B số tiền 24.270.308đ;

+ Bị hại Trần Thanh T 10.373.952đ;

+ Bị hại Trần Thị T số tiền 5.345.154đ;

+ Bị hại Phạm Thị H số tiền 18.100.000đ.

Hoàn trả lại cho bị cáo Trần Ngọc D số tiền tạm nộp chờ xử lý còn thừa là 83.846đ.

(Số tiền trên thể hiện theo biên lai thu số 05965 ngày 03/2/2020 số tiền 12. 553.973đ và biên lai thu số 05282 ngày 20/10/2020 số tiền 92.910.000đ của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Thuận).

Ghi nhận sự thỏa thuận giữa bị cáo Trần Ngọc D cùng với những bị hại, những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan về việc ngoài số tiền chiếm đoạt bị cáo D còn trả cho những bị hại và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan số tiền còn thiếu trong quá trình chơi hụi với tổng số tiền 1.014.981.723đ cụ thể như sau:

+ Trả cho Phan Thị B số tiền 76.784.692đ;

+ Trả cho Nguyễn Lâm Khánh B số tiền 44.942.000đ;

+ Trả cho Đỗ Thị L số tiền 16.191.016đ;

+ Trả cho Nguyễn Thị M số tiền 8.900.000đ;

+ Trả cho Lê Thị N số tiền 11.212.340đ;

+ Trả cho Trần Thị D số tiền 133.370.000đ;

+ Trả cho Nguyễn Thị Bé N số tiền 6.295.000đ;

+ Trả cho Huỳnh Út A số tiền 42.160.000đ;

+ Trả cho Nguyễn Lâm Khánh B số tiền 15.439.340đ;

+ Trả cho Nguyễn Thị Thu H số tiền 14.400.000đ;

+ Trả cho Nguyễn Thị T số tiền 69.046.000đ;

+ Trả cho Mai Thị H số tiền 26.930.441đ;

+ Trả cho Trần Thanh T số tiền 127.486.048đ;

+ Trả cho Võ Thị Đ số tiền 41.030.000đ;

+ Trả cho Dương Thị H số tiền 99.380.000đ;

+ Trả cho Trần Thị T số tiền 10.374.846đ;

+ Trả cho Phạm Thị H số tiền 64.500.000đ;

+ Trả cho Trần Thị X số tiền 18.270.000đ;

+ Trả cho Võ Ngọc T số tiền 8.280.000đ;

+ Trả cho Võ Thị V số tiền 52.300.000đ;

+ Trả cho Nguyễn Thị D số tiền 89.100.000đ;

+ Trả cho Lê Thị Đ số tiền 16.100.000đ;

+ Trả cho Mai Thị X số tiền 6.290.000đ;

+ Trả cho Nguyễn Thị L số tiền 7.700.000đ;

+ Trả cho Nguyễn Thị Lsố tiền 8.500.000đ.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về lãi chậm thi hành án, án phí và báo quyền kháng cáo theo luật định.

Sau khi xét xử sơ thẩm:

- Ngày 13/11/2020, bị cáo Trần Ngọc D có đơn kháng cáo với nội dung yêu cầu xem xét lại tổng số tiền còn phải trả; yêu cầu được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm x khoản 1 Điều 51 BLHS vì cha ruột là người có công với cách mạng được tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng Nhất, ông nội và ông ngoại là Liệt sĩ; yêu cầu giảm hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.

- Ngày 10 tháng 11 năm 2020, người bị hại Nguyễn Thị M có đơn kháng cáo với nội dung xác định số tiền bị cáo Trần Ngọc D chiếm đoạt là 8.900.000đ, yêu cầu buộc bị cáo D phải hoàn trả số tiền này.

- Ngày 10 tháng 11 năm 2020, người có quyền lợi liên quan Lê Thị Đ có đơn kháng cáo với nội dung xác định bị cáo Trần Ngọc D lừa đảo chiếm đoạt 16.100.000đ, buộc bị cáo D phải hoàn trả số tiền này.

- Ngày 13/11/2020, người bị hại Trần Thị T có đơn kháng cáo với nội dung xác định số tiền bị cáo Trần Ngọc D lừa đảo chiếm đoạt là 15.720.000đ; yêu cầu tăng hình phạt đối với bị cáo D.

- Ngày 13 tháng 11 năm 2020, người bị hại Trần Thanh T có đơn kháng cáo với nội dung số tiền bị cáo Trần Ngọc D chiếm đoạt phải chịu trách nhiệm hình sự là 113.850.000đ; yêu cầu tăng hình phạt đối với bị cáo D.

- Ngày 13 tháng 11 năm 2020, người bị hại Võ Thị Đ có đơn kháng cáo với nội dung xác định số tiền bị cáo Trần Ngọc D chiếm đoạt là 36.900.000đ.

- Ngày 13 tháng 11 năm 2020, người bị hại Mai Thị H có đơn kháng cáo với nội dung xác định số tiền bị cáo Trần Ngọc D chiếm đoạt phải chịu trách nhiệm hình sự là 44.700.000đ chứ không phải 17.800.000đ như bản án sơ thẩm xác định.

- Ngày 13 tháng 11 năm 2020, người bị hại Nguyễn Thị T có đơn kháng cáo với nội dung xác định số tiền bị cáo Trần Ngọc D lừa đảo chiếm đoạt là 124.948.000đ chứ không phải 55.938.000đ như bản án sơ thẩm xác định.

- Ngày 13 tháng 11 năm 2020, người bị hại Phạm Thị H có đơn kháng cáo với nội dung yêu cầu hủy một phần bản án sơ thẩm; xác định số tiền bị cáo Trần Ngọc D chiếm đoạt là 17.900.000đ.

- Ngày 13 tháng 11 năm 2020, người bị hại Đỗ Thị L có đơn kháng cáo với nội dung xác định số tiền bị cáo Trần Ngọc D lừa đảo chiếm đoạt là 21.767.000đ; yêu cầu tăng hình phạt đối với bị cáo D.

- Ngày 13 tháng 11 năm 2020, người bị hại Huỳnh Út A có đơn kháng cáo với nội dung yêu cầu xác định số tiền bị cáo Trần Ngọc D chiếm đoạt là 29.990.000đ.

- Ngày 13 tháng 11 năm 2020, người bị hại Phan Thị B có đơn kháng cáo với nội dung xác định số tiền bị cáo Trần Ngọc Dớt lừa đảo chiếm đoạt là 79.460.000đ; yêu cầu tăng hình phạt đối với bị cáo Dớt.

- Ngày 13 tháng 11 năm 2020, người bị hại Dương Thị H có đơn kháng cáo với nội dung xác định số tiền bị cáo Trần Ngọc D chiếm đoạt phải chịu trách nhiệm hình sự là 21.000.000đ chứ không phải 5.640.000đ như bản án sơ thẩm xác định.

- Ngày 13 tháng 11 năm 2020, người có quyền lợi liên quan Mai Thị X có đơn kháng cáo với nội dung xác định bị cáo Trần Ngọc D lừa đảo chiếm đoạt 6.290.000đ.

- Ngày 13 tháng 11 năm 2020, người có quyền lợi liên quan Võ Thị V có đơn kháng cáo với nội dung xác định bị cáo Trần Ngọc D lừa đảo chiếm đoạt 52.300.000đ; yêu cầu tăng hình phạt đối với bị cáo D.

- Ngày 13 tháng 11 năm 2020, người có quyền lợi liên quan Nguyễn Thị D có đơn kháng cáo với nội dung xác định bị cáo Trần Ngọc D lừa đảo chiếm đoạt 89.100.000đ; yêu cầu hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại toàn bộ vụ việc.

- Ngày 14/11/2020, người bị hại Trần Thị D có đơn kháng cáo với nội dung xác định số tiền bị cáo Trần Ngọc D chiếm đoạt phải chịu trách nhiệm hình sự là 116.870.000đ; yêu cầu tăng hình phạt đối với bị cáo D.

- Ngày 14 tháng 11 năm 2020, người bị hại Nguyễn Thị Thu H có đơn kháng cáo với nội dung yêu cầu tăng hình phạt đối với bị cáo Trần Ngọc D.

- Ngày 16/11/2020, người bị hại Nguyễn Lâm Khánh B có đơn kháng cáo với nội dung xác định số tiền bị cáo Trần Ngọc D lừa đảo là 44.942.000đ.

- Ngày 18 tháng 11 năm 2020, những người bị hại Nguyễn Thị B, Mai Thị Á và Võ Thị K có đơn kháng cáo với nội dung yêu cầu giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo Trần Ngọc D được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Đại diện Viện kiểm sát có ý kiến đề nghị:

+ Áp dụng Điều 356 BLTTHS, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Ngọc D và bị hại Nguyễn Thị B, Võ Thị K và Mai Thị Á về việc xin giảm hình phạt và cho bị cáo D được hưởng án treo; Không chấp nhận kháng cáo của các bị hại còn lại về việc yêu cầu tăng hình phạt đối với bị cáo D. Giữ nguyên mức hình phạt 2 năm tù về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và 3 năm tù về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản như bản án sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo Dớt.

+ Về phần trách nhiệm dân sự, cấp sơ thẩm không đưa ông Trần Trung H chồng của bị cáo D vào tham gia tố tụng để xem xét buộc liên đới cùng với bị cáo D chịu trách nhiệm trả tiền hụi còn thiếu cho những người bị hại và người có quyền lợi liên quan là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của các bị hại và người có quyền lợi liên quan. Đề nghị áp dụng Điều 358 BLTTHS, hủy một phần bản án sơ thẩm về xử lý trách nhiệm dân sự.

- Bị cáo Trần Ngọc D có ý kiến:

+ Rút lại phần kháng cáo yêu cầu xem xét lại tổng số tiền còn phải trả.

+ Giữ nguyên phần kháng cáo yêu cầu được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ, xin giảm hình phạt và cho hưởng án treo.

- Người bào chữa của bị cáo D có ý kiến:

+ Đề nghị xem xét áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo D là gia đình có công với cách mạng, cụ thể cha bị cáo được tặng thưởng Huy chương kháng chiến, ông nội và ông ngoại của bị cáo là Liệt sỹ. Từ đó, đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

+ Đồng ý theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về hủy một phần bản án sơ thẩm đối với phần xử lý trách nhiệm dân sự.

- Bị hại Nguyễn Thị B và Võ Thị K vắng mặt, có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Các bị hại và người có quyền lợi liên quan có kháng cáo còn lại có mặt tại phiên tòa đều giữ nguyên yêu cầu kháng cáo như nêu trên và đồng ý theo ý kiến của đại diện Viện kiểm sát về đề nghị hủy một phần bản án sơ thẩm đối với phần xử lý trách nhiệm dân sự.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại Mai Thị H, Trần Thị T, Trần Thanh T, Phan Thị B, Phạm Thị H và người có quyền lợi liên quan Lê Thị Đ có ý kiến:

+ Bị cáo D nhiều lần thực hiện hành vi lừa đảo và lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của những người bị hại mà mỗi lần đều đủ định lượng cấu thành tội phạm, nhưng cấp sơ thẩm không áp dụng tính tiết tăng nặng trách nhiện hình sự phạm tội hai lần trở lên quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS là bỏ sót tình tiết tăng nặng mà bị cáo phải bị áp dụng.

+ Cấp sơ thẩm tính tổng số tiền bị cáo D lừa đảo những người bị hại chỉ 76.617.877đ và áp dụng điểm c khoản 2 Điều 174 BLHS để xử lý đối với bị cáo là không đúng thực tế, bởi số tiền bị cáo D dùng thủ đoạn gian dối bằng hình thức tự ý lấy tên hụi viên khác để bản thân hốt hụi và tự ý lấy một số chân hụi của hụi viên bán cho người khác tổng cộng hơn 200.000.000đ chứ không phải chỉ có 76.617.877đ như cấp sơ thẩm xác định. Điển hình như dây hụi áp ngày 04/7/2017 âm lịch, ở thời điểm có 10 chân chết, 40 chân sống, bị cáo D tự ý lấy tên hụi viên Mai Thị H hốt được số tiền 5.100.000đ thì phải xác định số tiền bị cáo D lừa đảo lần này là 5.100.000đ (tổng số tiền hốt được, kể cả số tiền 10 chân hụi chết của các hụi viên đã hốt hụi đóng vào), nhưng cấp sơ thẩm tính lần này bị cáo Dớt chỉ lừa đảo chiếm đoạt của hụi viên Mai Thị H 90.000đ (03 chân) là không chính xác…Tương tự như vậy, tính lại đối với tất cả các lần khác thì tổng số tiền lừa đảo là trên 200.000.000đ. Từ đó, cho thấy hành vi của bị cáo D phạm vào điểm a khoản 3 Điều 174 BLHS với khung hình phạt là từ 7 đến 15 năm tù.

+ Đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, bị cáo D có hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS như cấp sơ thẩm áp dụng nhưng cũng có một tình tiết tăng nặng phạm tội hai lần trở lên quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS, nên việc cấp sơ thẩm áp dụng khoản 1 Điều 54 BLHS để xử phạt bị cáo D 3 năm tù dưới mức thấp nhất của khung hình phạt quy định tại khoản 3 Điều 175 BLHS là chưa phù hợp, chưa tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo.

Từ đó, đề nghị chấp nhận kháng cáo của các bị hại về việc yêu cầu tăng hình phạt đối với bị cáo D. Cụ thể đề nghị như sau:

Áp dụng tình tiết tăng nặng phạm tội hai lần trở lên quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS khi quyết định hình phạt đối với cả hai tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản;

Áp dụng khoản 3 Điều 174 BLHS đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và xử phạt trong khung hình phạt quy định từ 7 đến 15 năm tù;

Áp dụng khoản 3 Điều 175 BLHS đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và xử phạt trong khu hình phạt quy định từ 5 đến 12 năm tù.

+ Đồng ý theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về hủy một phần bản án sơ thẩm đối với phần xử lý trách nhiệm dân sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo:

Xét đơn kháng cáo của bị cáo D; những người bị hại và người có quyền lợi liên quan có tên ghi trên về nội dung, quyền kháng cáo, thủ tục kháng cáo và thời hạn kháng cáo là đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận xem xét giải quyết đơn kháng cáo của bị cáo D, các bị hại và người có quyền lợi liên quan theo trình tự phúc thẩm.

[2] Về thủ tục tố tụng:

- Tại phiên tòa phúc thẩm vắng mặt bị hại có kháng cáo Nguyễn Thị B và Võ Thị K, nhưng có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, nên theo quy định tại Điều 351 BLTTHS Hội đồng xét xử phúc thẩm sự vẫn tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.

- Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Trần Ngọc D rút lại một phần kháng cáo về việc yêu cầu xem xét lại tổng số tiền còn phải trả. Thấy rằng, đây là sự tự nguyện của bị cáo và không trái pháp luật nên cần chấp nhận. Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ khoản 3 Điều 342 BLTTHS đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với phần này.

[3] Về quyết định của bản án sơ thẩm:

Thông qua việc làm chủ hụi, lợi dụng sự tin tưởng và thiếu kiểm tra của các thành viên góp hụi, bị cáo Trần Ngọc D đã nhiều lần thực hiện hành vi gian dối bằng hình thức tự ý lấy tên một số hụi viên để bản thân hốt hụi mặc dù thực tế hụi viên đó không hốt và tự ý lấy một số chân hụi của hụi viên bán cho người khác mặc dù thực tế hụi viên đó không bán hụi; Nhiều lần thực hiện hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tiền của các hụi viên bằng hình thức khi hụi viên kêu hụi để hốt và mãn hụi được hốt, bị cáo D đã gom tiền của các hụi viên khác đầy đủ nhưng không giao hoặc giao không đủ cho hụi viên được hốt và nói dối là gom tiền không đủ để chiếm đoạt tiền của họ sử dụng vào mục đích cá nhân. Những lần thực hiện hành vi như vậy đều đủ định lượng cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Do đó việc Tòa án cấp sơ thẩm xét xử và kết án bị cáo D về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 174 và 175 BLHS là có căn cứ, đúng quy định.

[4] Về yêu cầu kháng cáo của bị cáo, bị hại và người có quyền lợi liên quan:

* Đối với kháng cáo của bị cáo Trần Ngọc D và ý kiến của Luật sư bào chữa cho bị cáo yêu cầu áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ, giảm hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo và kháng cáo của bị hại Nguyễn Thị B, Mai Thị Á, Võ Thị K yêu cầu giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo D được hưởng án treo:

Theo chứng cứ có trong hồ sơ thể hiện, trong giai đoạn điều tra, truy tố ở cấp sơ thẩm, bị cáo D đã cung cấp chứng cứ xác định gia đình có công với cách mạng, cụ thể cha ruột được tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhất, ông nội và ông ngoại là Liệt sĩ (bút lục 469a - 473). Cần xem đây là một trong những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS, tuy nhiên cấp sơ thẩm chưa áp dụng tình tiết giảm nhẹ này cho bị cáo, nên cấp phúc thẩm sẽ xem xét áp dụng.

Xét thấy, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội; tổng số tiền chiếm đoạt của các bị hại là tương đối lớn; bị cáo nhiều lần thực hiện hành vi phạm tội và bị xử cùng một lần về hai tội. Từ đó cho thấy, mặc dù bị cáo được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS nhưng mức án mà cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo D như trên là nhẹ so với tính chất, mức độ phạm tội bị cáo thực hiện, đã xem xét chiếu cố cho bị cáo, nên kháng cáo yêu cầu giảm hình phạt và cho bị cáo D được hưởng án treo không cơ sở để chấp nhận.

* Đối với phần kháng cáo của các bị hại và người có quyền lợi liên quan yêu cầu xác định toàn bộ số tiền bị cáo D còn phải trả như bản án sơ thẩm nêu là tiền bị cáo lừa đảo chiếm đoạt và buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự đối với số tiền này:

Xét thấy, theo chứng cứ có trong hồ sơ thể hiện, trong giai đoạn điều tra, xét xử, cấp sơ thẩm đã thực hiện đầy đủ các thủ tục để thu thập các tài liệu chứng cứ cần thiết chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo, xác định số tiền bị cáo chiếm đoạt của các bị hại từ hành vi phạm tội. Tuy ở giai đoạn sơ thẩm cũng như tại phiên tòa phúc thẩm, giữa bị cáo D và các bị hại, người có quyền lợi liên quan cùng thống nhất số tiền bị cáo còn có trách nhiệm phải trả cho từng người, nhưng không có cơ sở để xác định toàn bộ số tiền này là tiền bị cáo thực hiện hành vi phạm tội chiếm đoạt, mà chỉ có căn cứ kết luận từng lần bị cáo thực hiện hành vi phạm tội và số tiền chiếm đoạt từ hành vi phạm tội bằng hình thức lợi dụng việc làm chủ hụi như cấp sơ thẩm đã xác định và bị cáo thừa nhận, phần còn lại là trách nhiệm của chủ hụi đối với thành viên góp hụi trong giao dịch dân sự. Do đó, phần kháng cáo này của các bị hại và người có quyền lợi liên quan không có cơ sở để chấp nhận.

* Đối với phần kháng cáo của các bị hại và ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại cho rằng số tiền bị cáo D lừa đảo chiếm đoạt của các bị hại trên 200.000.000đ, đề nghị áp dụng điểm a khoản 3 Điều 174 BLHS để xử phạt bị cáo về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; đề nghị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự phạm tội hai lần trở lên quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS đối với cả hai tội; đề nghị tăng hình phạt đối với bị cáo:

- Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo D thừa nhận bản thân đã thực hiện các lần lừa đảo chiếm đoạt tiền của các bị hại thông qua hình thức mạo danh hụi viên để kêu hốt hụi và bán hụi cho người khác như bản án sơ thẩm nêu.

Qua xem xét cho thấy, cách xác định số tiền bị cáo D lừa đảo các bị hại như bản án sơ thẩm nêu ra là chưa chính xác, không đúng quy định. Bởi lẽ, đối với hành vi lừa đảo bằng hình thức mạo danh các hụi viên khác để hốt hụi, khi bị cáo đưa ra thông tin không đúng sự thật (nói là có hụi viên hốt nhưng thực tế không ai hốt mà bị cáo mạo danh họ để hốt) làm cho các hụi viên chưa hốt hụi lầm tưởng có người hốt và góp tiền hụi sống vào bao nhiêu thì đó là số tiền bị cáo lừa đảo chiếm đoạt của các bị hại và hành vi phạm tội của bị cáo đã hoàn thành ngay sau khi chiếm đoạt được số tiền đó. Việc sau khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo hoàn trả dần bằng cách bù tiền vào đóng hụi chết thay cho họ chỉ là biện pháp khắc phục hậu quả từ hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra, chứ không phải tính ở thời điểm dừng hụi hoặc mãn hụi bị cáo còn thiếu bao nhiêu là lừa đảo chiếm đoạt bao nhiêu như bản án sơ thẩm xác định. Dẫn chứng cụ thể như dây hụi áp ngày 04/7/2017 âm lịch, hụi 200.000đ, có 50 chân, bị cáo D lấy tên hụi viên Mai Thị H ở thời điểm có 10 chân chết, 40 chân sống, bỏ 120.000đ để hốt. Như vậy mỗi chân hụi sống phải góp vào 80.000đ (200.000đ - 120.000đ), nên số tiền bị cáo lừa đảo chiếm đoạt đối với 40 chân hụi sống của các hụi viên chưa hốt góp vào ở lần này là 3.200.000đ (80.000đ x 40 chân), nhưng bản án sơ thẩm xác định bị cáo D chỉ chiếm đoạt 90.000đ của hụi viên Mai Thị H ở thời điểm dừng hụi là không chính xác.

Xét ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại đề nghị xác định tổng số tiền từng lần bị cáo D mạo danh hụi viên hốt được, kể cả các chân hụi chết của hụi viên đã hốt hụi đóng vào là tiền bị cáo lừa đảo chiếm đoạt (Điển hình như dây hụi áp ngày 04/7/2017 âm lịch, ở thời điểm có 10 chân chết, 40 chân sống, bị cáo D tự ý lấy tên hụi viên Mai Thị H hốt được số tiền 5.100.000đ thì phải xác định số tiền bị cáo Dớt lừa đảo lần này là 5.100.000đ. Tương tự như vậy, tính lại đối với tất cả các lần khác thì tổng số tiền lừa đảo là trên 200.000.000đ). Thấy rằng ý kiến đề nghị này là không hợp lý, không có cơ sở để chấp nhận. Bởi lẽ, đối với các hụi viên đã hốt hụi thì phải có nghĩa vụ đóng tiền hụi chết đầy đủ cho chủ hụi đến khi mãn hụi, không phụ thuộc lần mở hụi nào ai hốt (hụi viên nào được hốt tiếp theo thì các hụi viên đã hốt hụi trước đó cũng phải đóng số tiền hụi chết đó), còn việc chủ hụi gom tiền hụi chết của các hụi viên đã hốt hụi mà không giao cho người được hốt hụi tiếp theo thì đã được xem xét xử lý về hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Do đó, đối với những lần bị cáo D mạo danh hụi viên để hốt hụi, thì chỉ xác định số tiền hụi sống các hụi viên chưa hốt hụi góp vào là tiền lừa đảo chiếm đoạt, còn các chân hụi chết là nghĩa vụ của các hụi viên phải góp hụi bình thường.

Từ phân tích trên, xem xét lại tất cả các lần bị cáo D thực hiện hành vi lừa đảo nêu trong bản án sơ thẩm, thì số tiền lừa đảo được xác định cụ thể như sau:

1. Dây hụi áp ngày 30/6/2017 âm lịch:

Mạo danh hụi viên Nguyễn Lâm Khánh B bán một chân hụi cho Trần Thị D lấy 5.450.000đ. Như vậy, lần này lừa đảo chiếm đoạt 5.450.000đ.

2. Dây hụi áp ngày 04/7/2017 âm lịch, hụi 200.000đ, có 50 chân:

+ Ở thời điểm có 09 chân chết, 41 chân sống, mạo danh hụi viên Mỹ N bỏ 110.000đ để hốt hụi. Như vậy, lần nầy lừa đảo chiếm đoạt là 3.690.00đ (41 chân hụi sống x 90.000đ).

+ Ở thời điểm có 10 chân chết, 40 chân sống, mạo danh hụi viên Mai Thị H bỏ 120.000đ để hốt hụi. Như vậy, lần nầy lừa đảo chiếm đoạt là 3.200.00đ (40 chân hụi sống x 80.000đ).

+ Ở thời điểm có 11 chân chết, 39 chân sống, mạo danh hụi viên Mai Thị H bỏ 120.000đ để hốt hụi. Như vậy, lần nầy lừa đảo chiếm đoạt là 3.120.00đ (39 chân hụi sống x 80.000đ).

+ Ở thời điểm có 12 chân chết, 38 chân sống, mạo danh hụi viên Mai Thị H bỏ 120.000đ để hốt hụi. Như vậy, lần nầy lừa đảo chiếm đoạt là 3.040.00đ (38 chân hụi sống x 80.000đ).

3. Dây hụi áp ngày 12/9/2017 âm lịch (dây 1), hụi 200.000đ, có 48 chân:

+ Ở thời điểm có 20 chân chết, 28 chân sống, mạo danh hụi viên Trần Thị T bỏ 121.000đ để hốt hụi. Như vậy, lần nầy lừa đảo chiếm đoạt là 2.212.000đ (28 chân hụi sống x 79.000đ).

+ Ở thời điểm có 21 chân chết, 27 chân sống, mạo danh hụi viên Mai Thị Á bỏ 118.000đ để hốt hụi. Như vậy, lần nầy lừa đảo chiếm đoạt là 2.214.000đ (27 chân hụi sống x 82.000đ).

+ Ở thời điểm có 22 chân chết, 26 chân sống, mạo danh hụi viên Nguyễn Thị Thu H bỏ 130.000đ để hốt hụi. Như vậy, lần nầy lừa đảo chiếm đoạt là 1.820.000đ (26 chân hụi sống x 70.000đ).

+ Ở thời điểm có 30 chân chết, 18 chân sống, mạo danh hụi viên Phan Thị B bỏ 68.000đ để hốt hụi. Như vậy, lần nầy lừa đảo chiếm đoạt là 2.376.000đ (18 chân hụi sống x 132.000đ).

+ Ở thời điểm có 31 chân chết, 17 chân sống, mạo danh hụi viên Phan Thị B bỏ 70.000đ để hốt hụi. Như vậy, lần nầy lừa đảo chiếm đoạt là 2.210.000đ (17 chân hụi sống x 130.000đ).

4. Dây hụi áp ngày 12/9/2017 âm lịch (dây 2), hụi 200.000đ, có 48 chân:

+ Ở thời điểm có 5 chân chết, 43 chân sống, mạo danh hụi viên Nguyễn Lâm Khánh B bỏ 100.000đ để hốt hụi. Như vậy, lần nầy lừa đảo chiếm đoạt là 4.300.000đ (43 chân hụi sống x 100.000đ).

+ Ở thời điểm có 6 chân chết, 42 chân sống, mạo danh hụi viên Nguyễn Lâm Khánh B bỏ 100.000đ để hốt hụi. Như vậy, lần nầy lừa đảo chiếm đoạt là 4.200.000đ (42 chân hụi sống x 100.000đ).

5. Dây hụi áp ngày 10/12/2017 âm lịch:

+ Mạo danh hụi viên Võ Thị V bán một chân hụi cho Nguyễn Thị T lấy 14.500.000đ. Như vậy, lần nầy lừa đảo chiếm đoạt là 14.500.000đ.

6. Dây hụi áp ngày 9/3/2018 âm lịch:

+ Mạo danh hụi viên Đỗ Thị L bán một chân hụi cho Nguyễn Thị T lấy 5.630.000đ. Như vậy, lần nầy lừa đảo chiếm đoạt là 5.630.000đ.

+ Mạo danh hụi viên bán hai chân hụi cho Huỳnh Út A lấy 11.830.000đ, trong khi không ai bán. Như vậy, lần nầy lừa đảo chiếm đoạt là 11.830.000đ.

+ Mạo danh hụi viên Võ Ngọc T bán một chân hụi cho Võ Thị Đ lấy 5.870.000đ. Như vậy, lần nầy lừa đảo chiếm đoạt là 5.870.000đ.

+ Mạo danh hụi viên Võ Ngọc T bán một chân hụi cho Dương Thị H lấy 5.640.000đ. Như vậy, lần nầy lừa đảo chiếm đoạt là 5.640.000đ.

7. Dây hụi áp ngày 15/6/2018 âm lịch:

+ Mạo danh hụi viên bán một chân hụi cho Võ Thị Đ lấy 7.200.000đ, nhưng thực tế không ai bán. Như vậy, lần nầy lừa đảo chiếm đoạt là 7.200.000đ.

+ Mạo danh hụi viên bán một chân hụi cho Nguyễn Thị M lấy 6.800.000đ, nhưng thực tế không ai bán. Như vậy, lần nầy lừa đảo chiếm đoạt là 6.800.000đ.

Như vậy, tổng cộng số tiền bị cáo D lừa đảo chiếm đoạt của các bị hại là 95.302.000đ.

Từ đó cho thấy, mặc dù cấp sơ thẩm xác định chưa đúng thực tế, nhưng qua xác định lại như trên thì số tiền bị cáo D lừa đảo chiếm đoạt của các bị hại cũng trong phạm vi từ 50.000.000đ đến dưới 200.000.000đ, nên việc cấp sơ thẩm áp dụng điểm c khoản 2 Điều 174 BLHS để kết tội và xử phạt bị cáo về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là đúng quy định. Ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bị hại cho rằng số tiền bị cáo lừa đảo chiếm đoạt trên 200.000.000đ và đề nghị áp dụng điểm a khoản 3 Điều 174 BLHS để xử phạt bị cáo là không có cơ sở để chấp nhận.

- Theo chứng cứ có trong hồ sơ và lời thừa nhận của bị cáo D tại phiên tòa phúc thẩm xác định được, bị cáo D đã nhiều lần thực hiện hành vi lừa đảo và lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của các bị hại, mà mỗi lần thực hiện đều đủ định lượng cấu thành tội phạm, cụ thể là từ 2.000.00đ trở lên đối với hành vi lừa đảo; từ 4.000.000đ trở lên đối với hành vi lạm dụng (điển hình như lần mạo danh hụi viên Nguyễn Lâm Khánh B bán một chân hụi cho Trần Thị D lấy 5.450.000đ là lừa đảo chiếm đoạt 5.450.000đ; trong dây hụi áp ngày 04/7/2017 âm lịch, hụi 200.000đ, có 50 chân, ở thời điểm có 09 chân chết, 41 chân sống, mạo danh hụi viên Mỹ N bỏ 110.000đ để hốt hụi, lừa đảo chiếm đoạt 3.690.00đ; trong dây hụi áp ngày 10/12/2017 âm lịch, mạo danh hụi viên Võ Thị V bán một chân hụi cho Nguyễn Thị T lấy 14.500.000đ là lừa đảo chiếm đoạt 14.500.000đ;…Trong dây hụi áp ngày 30/6/2017 âm lịch hụi viên bà Mai Thị Á tham gia 01 chân đến mãn hụi hốt được số tiền 10.100.000đ, D gom tiền đủ nhưng không giao cho bà Á mà nói dối rằng gom tiền không đủ, là lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt 10.100.000đ; trong dây hụi áp ngày 15/10/2017 âm lịch, hụi viên bà Phạm Thị H tham gia 02 chân kêu hốt được số tiền 13.000.000đ, D gom tiền đủ nhưng không giao cho bà H mà nói dối rằng gom tiền không đủ, là lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt 13.000.000đ;...). Do đó, có căn cứ để kết luận bị cáo D thực hiện hành vi phạm tội hai lần trở lên đối với cả hai tội, nhưng cấp sơ thẩm không áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS khi quyết định mức hình phạt đối với bị cáo là bỏ sót tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự mà bị cáo phải bị áp dụng. Từ đó cho thấy, mặc dù bị cáo được hưởng hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS nhưng cũng bị áp dụng một tình tiết tăng nặng quy định tại khoản 1 Điều 52 BLHS như phân tích trên, mà cấp sơ thẩm áp dụng khoản 1 Điều 54 BLHS xử phạt bị cáo D 3 năm tù về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, dưới mức thấp nhất của khung hình phạt bị áp dụng ở khoản 3 Điều 175 BLHS (5 năm tù) là chưa phù hợp, chưa tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo.

Từ đó xét thấy, kháng cáo của các bị hại và ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại về việc đề nghị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự phạm tội hai lần trở lên và tăng hình phạt đối với bị cáo là có cơ sở để chấp nhận.

[5] Xét phần xử lý trách nhiệm dân sự cấp sơ thẩm đã quyết định:

+ Tuy phải xác định số tiền bị cáo chiếm đoạt của các bị hại ở thời điểm thực hiện hành vi như phân tích trên để làm định lượng xem xét trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, nhưng trong quá trình điều tra, xét xử giữa bị cáo và các bị hại, người có quyền lợi liên quan đã thống nhất số tiền bị cáo còn phải tiếp tục hoàn trả ở thời điểm dừng hụi, mãn hụi. Vì vậy, việc cấp sơ thẩm căn cứ vào số tiền giữa bị cáo và người bị hại, người có quyền lợi liên quan đã thống nhất xác định để xử lý phần trách nhiệm dân sự là phù hợp.

+ Xét thấy, phần quyết định những bị hại được nhận số tiền bị cáo khắc phục hậu quả đối với số tiền bị cáo đã tạm nộp tại cơ quan Thi hành án dân sự như bản án sơ thẩm tuyên là đúng quy định, nên không xem xét lại.

+ Đối với phần ghi nhận sự thỏa thuận giữa bị cáo D cùng với những bị hại, những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan về việc ngoài số tiền chiếm đoạt bị cáo D còn trả cho những bị hại và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan số tiền còn thiếu trong quá trình chơi hụi với tổng số tiền 1.014.981.723đ.

Xét thấy, cấp sơ thẩm xác định đây không phải là tiền bị cáo D chiếm đoạt từ hành vi phạm tội, mà là tiền còn thiếu trong quá trình chơi hụi (tại phiên tòa phúc thẩm còn xác định được có cả tiền vay còn thiếu đối với bà Võ Thị V). Trong khi, chính bị cáo D thừa nhận việc làm chủ hụi có thu nhập là phục vụ cho nhu cầu chung thiết yếu của gia đình, nhưng cấp sơ thẩm không đưa chồng của bị cáo D (ông Trần Trung Hiếu) vào tham gia tố tụng để xem xét liên đới trách nhiệm cùng bị cáo trong việc trả số tiền còn thiếu nêu trên là bỏ sót người tham gia tố tụng. Mặt khác, xác định không phải là tiền bị cáo chiếm đoạt từ hành vi phạm tội trong vụ án này, thì cũng không phải là vấn đề dân sự trong vụ án hình sự theo quy định tại Điều 30 Bộ luật tố tụng hình sự, mà đây là các giao dịch dân sự theo quy định của pháp luật dân sự, cho nên nếu có phát sinh tranh chấp và có yêu cầu thì phải được xem xét giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Việc Tòa án cấp sơ thẩm quyết định xử lý cả số tiền còn thiếu đối với các giao dịch dân sự trong cùng vụ án hình sự này là không đúng quy định, ảnh hưởng đến quyền lợi của người tham gia tố tụng (ảnh hưởng đến việc xác định số tiền án phí phải chịu; ảnh hưởng đến điều kiện để được xem xét miễn, giảm chấp hành hình phạt và xóa án tích đối với bị cáo;…). Như vậy, cấp sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người tham gia tố tụng mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung, khắc phục được. Do đó, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát đề nghị hủy bản án sơ thẩm đới với phần này là có cơ sở để chấp nhận.

Từ các phân tích trên, Hội đồng xét xử chấp nhận một phần ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát; chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo D và một phần ý kiến đề nghị của luật sư bào chữa cho bị cáo; chấp nhận một phần kháng cáo của các bị hại và một phần ý kiến đề nghị của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại; chấp nhận một phần kháng cáo của người có quyền lợi liên quan. Sửa một phần bản án sơ thẩm về quyết định mức hình phạt đối với bị cáo và hủy một phần bản án sơ thẩm về xử lý trách nhiệm dân sự đối với phần ghi nhận sự thỏa thuận bị cáo trả cho những bị hại và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan số tiền còn thiếu trong quá trình chơi hụi với tổng số tiền 1.014.981.723đ.

Thấy rằng, vấn đề dân sự trong vụ án hình sự này đã được cấp sơ thẩm giải quyết xong bằng việc xác định bị cáo D đã bồi hoàn trực tiếp cho các bị hại một phần và nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Thuận 105.563.973đ là đã đủ số tiền bị cáo chiếm đoạt của các bị hại từ hành vi phạm tội lừa đảo và lạm dụng tín nhiệm bị xử lý trong vụ án này. Còn số tiền 1.014.981.723đ xác định không phải là tiền bị cáo D chiếm đoạt từ hành vi phạm tội trong vụ án hình sự này, mà là tiền còn thiếu trong quá trình chơi hụi (có cả tiền vay của bà Võ Thị V), đồng thời việc xử lý đối với phần này của bản án sơ thẩm bị hủy nên không còn được xem là vấn đề dân sự trong vụ án hình sự này, mà đây là các giao dịch dân sự theo quy định của pháp luật dân sự. Do đó, nếu có tranh chấp và có yêu cầu sẽ được xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

[6] Về án phí, căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hộ về án phí, lệ phí Tòa án:

- Án phí sơ thẩm: Phần ghi nhận trách nhiệm bị cáo D phải trả 1.014.981.723đ cho các bị hại và người có quyền lợi liên quan trong bản án sơ thẩm bị hủy, nên không buộc bị cáo phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với số tiền này. Việc phải nộp tạm ứng án phí, chịu phí dân sự sơ thẩm sẽ được tính khi giải quyết lại phần này theo quy định chung.

- Án phí phúc thẩm: Do yêu cầu kháng cáo của bị cáo, các bị hại và người có quyền lợi liên quan được chấp nhận một phần và bản án sơ thẩm bị sửa một phần, hủy một phần nên bị cáo, các bị hại và người có quyền lợi liên quan không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các Quyết định của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ Điều 342 Bộ luật tố tụng hình sự:

Đình chỉ xét xử phúc thẩm phần kháng cáo của bị cáo Trần Ngọc Dớt về yêu cầu xác định lại tổng số tiền còn phải trả.

2. Căn cứ các điều 355, 357 và Điều 358 Bộ Luật Tố tụng hình sự:

Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Trần Ngọc D và các bị hại, người có quyền lợi liên quan:

- Sửa một phần bản án hình sự sơ thẩm số: 27/2020/HSST ngày 30/10/2020 của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Thuận, tỉnh Kiên Giang về xử lý trách nhiệm hình sự;

Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Trần Ngọc D 02 (Hai) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng khoản 3 Điều 175; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Trần Ngọc D 05 (Năm) năm tù về tội “Lạm dụng tín nhiếm chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng Điều 55 Bộ luật hình sự hình sự, tổng hợp hình phạt của hai tội buộc bị cáo Trần Ngọc D phải chấp hình phạt chung là 07 (Bảy) năm tù. Thời điểm chấp hành hình phạt tù được tính kể từ ngày bị cáo vào chấp hành án.

- Hủy một phần bản án hình sự sơ thẩm số: 27/2020/HSST ngày 30/10/2020 của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Thuận, tỉnh Kiên Giang về xử lý trách nhiệm dân sự, đối với phần ghi nhận sự thỏa thuận giửa bị cáo Trần Ngọc D cùng với những bị hại, người có quyền lợi liên quan về việc ngoài số tiền chiếm đoạt bị cáo D còn trả cho bị hại, người có quyền lợi liên quan số tiền còn thiếu trong quá trình chơi hụi với tổng số tiền 1.014.784.723đ.

Bảo lưu quyền khởi kiện vụ án dân sự theo quy định cho các bị hại và người có quyền lợi liên quan đối số tiền bị cáo Trần Ngọc D còn thiếu nêu trên.

3. Về án phí, áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí lệ phí Tòa án:

- Bị cáo Trần Ngọc D phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm; không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

- Bị cáo Trần Ngọc D và các bị hại, người có quyền lợi liên quan có kháng cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm số: 27/2020/HSST ngày 30/10/2020 của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Thuận, tỉnh Kiên Giang không có kháng cáo; không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lạm dụng tín nhiếm chiếm đoạt tài sản số 53/2021/HS-PT

Số hiệu:53/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về