Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 51/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA BÌNH - TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 51/2023/HS-ST NGÀY 02/08/2023 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Hôm nay, ngày 02 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gia Bình - tỉnh Bắc Ninh mở phiên toà xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 52/2023/TLST-HS ngày 07/7/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 48/2023/QĐXXST-HS ngày 07/7/2023, đối với bị cáo:

- Đinh Thị Y, sinh ngày 23/7/2004; Nơi ĐKHKTT và nơi ở: Thôn N, xã Đ, huyện G, tỉnh Bắc Ninh; trình độ học vấn: 09/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Đinh Văn L, sinh năm 1981 và bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1984; gia đình có 04 chị em, bị cáo là thứ nhất; chồng chưa có; có 01 con sinh năm 2021, hiện đang có thai; tiền án, tiền sự, nhân thân: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 13/03/2023 đến nay (có mặt tại phiên tòa).

- Người bị hại: Anh Lưu Văn N, sinh năm 1996; trú tại: Thôn G, xã B, huyện G, tỉnh Bắc Ninh. (Có đơn xin xét xử vắng mặt) - Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Quàng Văn Đ, sinh năm 1994; trú tại: Bản T, Chiềng X, thành phố S, tỉnh Sơn La. (Có đơn xin xét xử vắng mặt)

2. Ông Nguyễn Viết T, sinh năm 1977; trú tại: Thôn A, xã L, huyện G, tỉnh Bắc Ninh (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 02/8/2022, Đinh Thị Y, sinh ngày 23/7/2004 sử dụng điện thoại di động của mình, vào ứng dụng Shopee và đặt hàng 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Apple Iphone 13 Pro bản 128 Gb màu Sierra Blue số imei: 351559302730668 của gian hàng điện tử có tên Minhtuanmobile của công ty TNHH Minh Tuấn Mobile, địa chỉ: 28 Trần Quang Khải, phường T, quận 1, Tp. Hồ Chí Minh, giá trị đơn hàng là 26.339.500 đồng. Sau khi tiếp nhận đơn hàng, công ty Minh Tuấn Mobile đã làm thủ tục đóng gói và chuyển hàng cho Y. Ngày 08/8/2022, hàng được chuyển đến điểm trung chuyển của công ty TNHH Shopee Express, địa chỉ ở 163 đường L, thị trấn G, huyện G, tỉnh Bắc Ninh, mã vận đơn là SPXVN027275277388 và được giao cho nhân viên giao hàng của công ty là anh Lưu Văn N để vận chuyển và giao hàng. Sau khi tiếp nhận đơn hàng, khoảng 09 giờ 30 phút cùng ngày 08/8/2022, anh N gọi điện thoại di động cho Y thông báo có đơn hàng thì Y bảo anh N mang đến nhà của Y ở An Quang, Lãng Ngâm, Gia Bình, Bắc Ninh. Khi anh N mang hàng đến nhà Y, anh N có gọi điện thoại cho Y bảo Y xuống nhận hàng. Do đang có việc bận không thể xuống nhận hàng được nên Y bảo anh N cứ để hàng trong nhà sau đó Y sẽ chuyển khoản thanh toán tiền hàng cho anh N sau. Do đã nhiều lần giao hàng cho Y nên đã quen biết và Y cũng đã nhiều lần chuyển khoản thanh toán tiền hàng cho anh N nên anh N tin tưởng và mang gói hàng là chiếc điện thoại di động để vào trong nhà Y rồi tiếp tục đi giao các đơn hàng khác. Trước khi để gói hàng vào trong nhà cho Y, anh N đã sử dụng điện thoại di động của mình quay lại ngoại quan của gói hàng để xác định gói hàng vẫn còn nguyên vẹn. Sau khi anh N đi, Y về nhà nhìn thấy gói hàng là chiếc điện thoại di động nên đã nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc điện thoại di động này. Y dùng kéo cắt băng dính bên ngoài của gói hàng rồi bóc gói hàng ra mở hộp điện thoại lấy chiếc điện thoại di động cất vào trong ngăn kéo rồi Y lại gói lại gói hàng như cũ. Y sử dụng điện thoại di động của mình quay lại việc bóc gói hàng bên trong không có chiếc điện thoại di động. Do không thấy Y chuyển khoản thanh toán tiền hàng nên anh N đã liên lạc với Y thì Y nói gói hàng không có điện thoại bên trong đồng thời cung cấp cho anh N đoạn video ghi lại cảnh Y bóc gói hàng mà Y đã quay trước đó và từ chối thanh toán tiền cho anh N.

Anh N sau đó đã báo cáo công ty để trả lại đơn hàng cho công ty Minh Tuấn Mobile, công ty Minh Tuấn Mobile sau đó đã khiếu nại do đơn hàng chuyển lại không có chiếc điện thoại bên trong. Qua rà soát xác định không có dấu hiệu bất thường trong quá trình từ khi đóng gói cho đến khi giao đến cho anh N nên anh N phải bồi thường toàn bộ giá trị đơn hàng là 26.339.500 đồng và phải bị phạt số tiền 2.000.000 đồng. Anh N đã thanh toán đầy đủ số tiền trên. Sau khi chiếm đoạt được chiếc điện thoại di động, Y sử dụng điện thoại đến ngày 19/9/2022 thì Y cùng anh Nguyễn Viết Đ, sinh năm 2001 ở cùng thôn mang chiếc điện thoại này đến cửa hàng điện thoại di động TL Store của anh Nguyễn Đình T, sinh năm 2000 ở số 116, đường L, thị trấn G, huyện G, bán lại chiếc điện thoại di động trên cho anh T với giá 18.000.000 đồng, số tiền có được, Y một mình tiêu xài cá nhân hết.

Ngày 13/01/2023, anh N có đơn trình báo gửi Công an huyện G về nội dung vụ việc như đã nêu trên và giao nộp 01 đĩa DVD bên trong ghi lại hình ảnh anh quay lại gói hàng trước khi để vào trong nhà của Đinh Thị Y.

Quá trình điều tra, cơ quan CSĐT Công an huyện G đã tiến hành xác minh xác định: Anh T sau khi mua được chiếc điện thoại đã bán lại chiếc điện thoại cho anh Vũ Quốc H, sinh năm 1999; ở 175, Thịnh Quang, Trung Liệt, Đống Đa, Hà Nội với giá 18.500.000 đồng, anh H sau đó tiếp tục bán chiếc điện thoại di động này cho anh Quàng Văn Đ, sinh năm 1994, HKTT: Bản T, Chiềng X, TP.S, tỉnh Sơn La với giá 18.900.000 đồng. Ngày 30/01/2023, sau khi biết chiếc điện thoại là do người khác phạm tội mà có, anh Đ đã tự giác giao nộp chiếc điện thoại di động trên.

Tại bản kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 02 ngày 03/02/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện G kết luận: Giá trị thực tế còn lại của chiếc điện thoại di động trên là 15.000.000 đồng.

Tại bản kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 11b ngày 03/05/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện G kết luận: Giá trị thực tế của chiếc điện thoại di động trên tại thời điểm ngày 08/8/2023, điện thoại mới 100%, chưa qua sử dụng là 26.339.500 đồng Tại bản cáo trạng số 36/Ctr-VKS ngày 05/7/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện G, tỉnh Bắc Ninh đã truy tố bị cáo Đinh Thị Y phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Đinh Thị Y khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng mà Viện kiểm sát truy tố. Bị cáo thừa nhận có đặt mua một chiếc điện thoại Apple Iphone 13 Pro bản 128 Gb của Công ty Minh Tuấn Mobile. Do không có mặt ở nhà nên khi được anh N là nhân viên giao hàng liên hệ thì Y đã đề nghị anh N để lại hàng ở nhà Y và sẽ thanh toán tiền sau. Do nhiều lần giao hàng nên anh N có biết Y và đồng ý giao hàng, tuy nhiên khi nhận được hàng Y đã nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc điện thoại Iphone đó. Y mở gói hàng sau đó lấy điện thoại và đóng gói như cũ, sau đó dùng điện thoại quay lại quá trình mở gói hàng để chứng minh là không có điện thoại Iphone bên trong và đề nghị trả lại hàng. Sau khi Y trả lại hàng thì anh N là nhân viên giao hàng đã phải bồi thường tiền hàng 26.339.500 đồng và phạt 2.000.000 đồng do giao hàng sai quy định. Bị cáo thừa nhận cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” là đúng người, đúng tội không oan.

Người bị hại anh Lưu Văn N vắng mặt đã có đơn xin xét xử vắng mặt, trong đơn anh N xác định các bên đã thoả thuận xong về việc bồi thường thiệt hại, anh N cũng có đơn đề nghị miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo, anh N xin vắng mặt tai phiên toà sơ thẩm và không có ý kiến gì khác.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là anh Quàng Văn Đ vắng mặt nhưng đã có đơn xin xét xử vắng mặt, trong đơn anh Đ chỉ đề nghị Toà án tuyên trả lại cho anh chiếc điện thoại iphone 13 Pro mà anh đã giao nộp trong quá trình điều tra vụ án, anh N xin vắng mặt tại phiên toà sơ thẩm và không có ý kiến gì khác.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Viết T trình bày là ông có bồi thường cho bị hại số tiền 40.000.000 đồng. Tuy nhiên, số tiền đó là không phải là của ông T mà là của bị cáo Y đưa cho ông, nên đối với việc giải quyết số tiền bồi thường ông đưa cho bị hại, ông không có ý kiến gì.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh trong phần luận tội đã phân tích nguyên nhân, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử tuyên xử bị cáo Đinh Thị Y phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiến đoạt tài sản”.

Đề nghị áp dụng Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 175; điểm b, i, n, s khoản 1 và khoản 2 điều 51; Điều 65, Điều 46 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Xử phạt Đinh Thị Y từ 09 tháng đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là từ 18 tháng đến 24 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Về vật chứng của vụ án:

Đối với 01 đĩa DVD bên trong ghi lại hình ảnh anh N quay lại gói hàng trước khi để vào trong nhà của Đinh Thị Y do anh N giao nộp cần tiếp tục lưu trong hồ sơ vụ án.

Trả lại anh Quàng Văn Đ chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Apple Iphone 13 Pro bản 128 Gb màu Sierra Blue.

Về trách nhiệm dân sự: không đặt ra xem xét giải quyết.

Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Đinh Thị Y không có ý kiến tranh luận gì chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Các hành vi của người tiến hành tố tụng, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng đều được thực hiện, ban hành theo đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, nội dung các quyết định ban hành đều đảm bảo tính hợp pháp và đúng căn cứ pháp luật.

Đối với sự vắng mặt của người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Toà án đã triệu tập hơp lệ người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, những người này đều đã có lời khai trình bày trong hồ sơ vụ án và đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, riêng đối với ông T thì không có đơn xét xử vắng mặt nhưng đã vắng mặt lần thứ hai mà không có lý do chính đáng nên việc Toà án tiếp tục xét xử vụ án vắng mặt những người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là đúng theo quy định tại Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự.

[2]. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại, người liên quan và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, có thể khẳng định: Vào Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 08/8/2022, anh Lưu Văn N là nhân viên giao hàng của điểm trung chuyển công ty TNHH Shopee Express thị trấn G đến nhà Đinh Thị Y tại An Quang, Lãng Ngâm, Gia Bình, Bắc Ninh để giao đơn hàng là 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Apple Iphone 13 Pro bản 128 Gb màu Sierra Blue trị giá 26.339.500 đồng mà Y đã đặt trước đó qua ứng dụng Shopee. Do có việc bận không nhận hàng ngay được nên Y đã nhờ anh N để hàng ở trong nhà và hẹn sẽ chuyển khoản thanh toán tiền hàng cho anh N sau. Do đã nhiều lần giao hàng và quen biết với Y nên anh N tin tưởng để gói hàng vào trong nhà Y rồi tiếp tục đi giao các đơn hàng khác. Sau khi nhận được gói hàng, Y nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc điện thoại nêu trên nên Y đã bóc gói hàng, lấy chiếc điện thoại di động cất vào trong ngăn kéo rồi lại gói gói hàng lại như cũ. Y sử dụng điện thoại di động của mình quay lại cảnh bóc gói hàng vừa gói lại cung cấp cho anh N và bảo với anh N trong gói hàng không có chiếc điện thoại di động và trả lại đơn hàng. Y sử dụng chiếc điện thoại chiếm đoạt được đến ngày 19/9/2022 thì bán cho anh Nguyễn Đình T với giá 18.000.000 đồng, anh T tiếp tục bán cho Vũ Quốc H và anh H tiếp tục bán chiếc điện thoại cho anh Quàng Văn Đ với giá 18.900.000 đồng. Như vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yêu tố cấu thành tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự. Cáo trạng số 36/Ctr-VKS ngày 05/7/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện G đã truy tố bị cáo với hành vi và tội danh như đã công bố là hoàn toàn có căn cứ, đúng người đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng không tốt đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Với mục đích kiến tiền nhanh chóng để hưởng thụ nhu cầu bản thân mà không phải lao động bị cáo đã lợi dụng lòng tin của bị hại để chiếm đoạt tài sản, ngoài việc chiếm đoạt tài sản thì hành vi đó còn gây ảnh hưởng tới uy tín và chất lượng dịch vụ mà bị hại đang cung cấp cho xã hội cụ thể là việc anh N phải chịu phạt số tiền 2.000.000 đồng do làm sai nguyên tắc giao hàng. Do đó, đối với hành vi phạm tội của bị cáo cần phải xử lý bằng luật hình mới đảm bảo được giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[3] Xét về nhân thân bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; quá trình điều tra, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; sau khi phạm tội đã tác động đến gia đình để bồi thường cho bị hại toàn bộ thiệt hại; hiện bị cáo đang có thai; bị hại có đơn xin miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo; bị cáo không có chồng, đang phải nuôi con nhỏ một mình. Do đó, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ tại điểm b, i, n, s khoản 1 và khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự. Xét thấy, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào, bị cáo có địa chỉ cư trú rõ ràng, ngoài hành vi phạm tội đang bị xét xử bị cáo không có hành vi phạm tội nào khác. Trường hợp của bị cáo đủ điều kiện áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự, nên Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà cho bị cáo hưởng án treo cũng đủ cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Đại diện gia đình bị cáo đã bồi thường cho anh N số tiền 40.000.000 đồng, anh N đã nhận số tiền trên, không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Nên trách nhiệm dân sự không đặt ra xem xét giải quyết.

[5] Về vật chứng của vụ án: Đối với 01 đĩa DVD là dữ liệu điện tử bên trong ghi lại hình ảnh anh N quay lại gói hàng trước khi để vào trong nhà của Đinh Thị Y do anh N giao nộp được niêm phong trong hồ sơ là tài liệu chứng minh tội phạm cần được lưu theo hồ sơ vụ án.

Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Apple Iphone 13 Pro bản 128 Gb màu Sierra Blue, số imei: 351559302730668 hiện đang tạm giữ tại kho vật Chi cục Thi hành án dân sự huyện G do anh Quàng Văn Đ mua lại từ cửa hàng điện thoại, khi mua không biết là tài sản do phạm tội mà có, trong khi phía anh N đã được bồi thường toàn bộ giá trị chiếc điện thoại bao gồm cả tiền phạt. Nên cần chấp nhận yêu cầu của anh Đ, trả lại cho anh Đ chiếc điện thoại trên là phù hợp.

[6] Đối với anh Nguyễn Viết Đ là người cùng đi bán chiếc điện thoại với Y và anh Nguyễn Đình T là người mua chiếc điện thoại di động mà Y đã chiếm đoạt được của anh N. Quá trình điều tra xác định, khi anh Đ đi bán chiếc điện thoại di động cùng Y và khi anh T mua chiếc điện thoại di động này thì anh Đ và anh T không biết chiếc điện thoại di động này là do Y chiếm đoạt của anh N nên việc Viện kiểm sát đề nghị không xem xét xử lý đối với hành vi của anh Đ và anh T là phù hợp.

[7] Bị cáo Đinh Thị Y phải chịu án phí hính sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Đinh Thị Y phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 175; điểm b, i, n, s khoản 1 và khoản 2 điều 51; Điều 65; Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106; Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án;

Xử phạt bị cáo Đinh Thị Y 09 (Chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Đinh Thị Y cho UBND xã Đ, huyện G, tỉnh Bắc Ninh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật này.

2. Xử lý vật chứng:

Trả lại cho anh Quàng Văn Đ 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Apple Iphone 13 Pro bản 128 Gb màu Sierra Blue, số imei: 351559302730668 hiện đang tạm giữ tại kho vật Chi cục Thi hành án dân sự huyện G (Vật chứng được mô tả theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản lập ngày 10/7/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện G giữa Đội Hình sự, Công an huyện G và Chi cục Thi hành án dân sự huyện G) Lưu trữ theo hồ sơ vụ án 01 đĩa DVD là dữ liệu điện tử bên trong ghi lại hình ảnh gói hàng trước khi để vào trong nhà của Đinh Thị Y do anh N giao nộp, được niêm phong trong hồ sơ vụ án.

3. Về án phí: Bị cáo Đinh Thị Y phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

6
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 51/2023/HS-ST

Số hiệu:51/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Bình - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về