TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH SƠN - TỈNH PHÚ THỌ
BẢN ÁN 51/2022/HS-ST NGÀY 03/11/2022 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 03 tháng 11 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 49/2022/HSST ngày 12/9/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 52/2022/QĐXXST - HS ngày 21/10/2022 đối với các bị cáo:
1.Họ tên: BÙI ĐÔNG T, sinh ngày: 02/7/1991 tại Thanh Sơn, Phú Thọ.
Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Nơi thường trú: khu Đ, thị trấn Thanh Sơn, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam;Tôn giáo: Không; Văn hóa: 09/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do;
Chức vụ, đoàn thể, đảng phái: Không; Bố mẹ đẻ: Không xác định; Bố nuôi: Bùi Đông Th- Sinh năm: 1948; Mẹ nuôi: Hà Thị B (Đã chết); Vợ: Nguyễn Thị Nh-Sinh năm 1988; Con: Bùi Đông T1 – Sinh năm 2015; Bố nuôi, vợ, con hiện đều ở khu Đ, thị trấn Thanh Sơn, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ; Anh, chị, em ruột: Không; Tiền án, tiền sự: Không.
Lịch sử bản thân: Bị cáo 02 lần bị xét xử theo các bản án:
+ Bản án số 291/2011/HSST ngày 08/9/2011 của Tòa án nhân dân huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội, xử phạt bị cáo 18 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 03/9/2012 bị cáo đã chấp hành xong toàn bộ bản án.
+ Bản án số 23/2017/HSST ngày 31/5/2017 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ,xử phạt bị 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 31/5/2019 bị cáo đã chấp hành xong toàn bộ bản án.
Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam. Hiện bị cáo đang thi hành Lệnh Cấm đi khỏi nơi cư trú tại UBND thị trấn Thanh Sơn, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.
2.Họ tên: BÙI QUỐC P, sinh ngày 27/02/1990 tại Phù Ninh, Phú Thọ; Tên gọi khác: Không ; Giới tính: Nam; Nơi thường trú: Khu X, xã T, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Văn hóa: 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Chức vụ, đoàn thể, đảng phái: Không; Bố đẻ: Bùi Thuyết L – Sinh năm 1959; Mẹ đẻ: Phạm Thị Trọng T2 – Sinh năm 1962; Vợ: Trần Thị Thu P2, Sinh năm 1995; Con: Bị cáo có 02 con, lớn sinh năm 2015, nhỏ sinh năm 2021; Anh, chị, em ruột: Bị cáo có 01 anh trai sinh năm 1986; Tiền án, Tiền sự: Không Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 02/8/2022 đến ngày 05/8/2022 chuyển tạm giam. Hiện bị can đang thi hành Lệnh tạm giam tại trại tạm giam công an tỉnh Phua Thọ.
Người bị hại:
(Các bị cáo có mặt tại phiên tòa).
Anh Đặng Xuân T3, sinh năm 1983 Địa chỉ: Xóm T, xã S, huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình (Vắng mặt)
Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1. Anh Phạm Văn Tr, sinh năm 1988; Địa chỉ: Thôn C, xã H, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định (Vắng mặt)
2. Anh Lăng Đ H, sinh năm 199;1 Địa chỉ: Khu X, xã G, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ (Vắng mặt)
3. Anh Nguyễn Hữu T4, sinh năm 1986; Địa chỉ: Thôn B 2, xã X, huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội, (Vắng mặt).
4. Anh Nguyễn Đ H1, sinh năm 1979; Địa chỉ: XómX, xã P2, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội (Vắng mặt)
5. Chị Nguyễn Thị Nh, sinh năm 1988; Địa chỉ: Khu Đ, thị trấn Thanh Sơn, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ (Có mặt).
6. Ông Nguyễn Trung K, sinh năm 1956; Địa chỉ: Khu 8, xã G, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ (Vắng mặt)
Người làm chứng:Anh Đỗ Ngọc Kh, sinh năm 1990 Địa chỉ: Khu 8, xã G, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ (Có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Bùi Đông T là bạn với Bùi Quốc P. P thường xuyên đến chơi và ở lại nhà T. Đầu tháng 02 năm 2022, T đã vào nhóm hội lái xe trên mạng xã hội Facebook đọc được bài đăng của anh Đặng Xuân T3 về việc tìm người lái xe tải. Sau đó T xin việc được anh T3 đồng ý nhận vào làm lái xe cho anh T3 từ ngày 12/02/2022. Trong thời gian chở hàng cho anh T3, Bùi Đông T đã cùng Bùi Đông T đã 01 lần thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của anh T3.Sau khi thực hiện hành vi phạm tội, Bùi Quốc P đã bỏ trốn khỏi địa P2, đến ngày 02/8/2022, P đến Cơ quan CSĐT Công an huyện Thanh Sơn đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội của mình. Tại Bản kết luận định giá tài sản số 23/KL-HĐĐGTS ngày 12/4/2022 của Hội đồng định giá tài sản – UBND huyện Thanh Sơn kết luận: Vào thời điểm ngày 12 và 13/02/2022 thì 266 lít dầu Diezen có giá 5.386.000đồng; 10 bao hạt nhựa Exchangpua có giá 11.500.000đồng. Tổng trị giá tài sản yêu cầu định giá là 16.886.000đồng.
Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa các bị cáo khai: Khoảng 12 giờ ngày 12/02/2022, T được anh T3 giao điều khiển chiếc xe ô tô tải BKS: 34C - X chở cát từ khu 8, xã G, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ đến huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội. Sau khi nhận được chiếc xe và hàng hoá thì T nảy sinh ý định rút dầu diesel trong xe ô tô bán lấy tiền tiêu xài. Lúc này P cũng đang ở nhà T chơi nên T rủ P đi cùng. Khi lên xe, T nói với P:“Giờ không có tiền thì làm thế nào, ông xem chỗ nào mua dầu thì bảo tôi để bán”, ý nói lấy dầu diesel trong xe ô tô bán lấy tiền tiêu sài thì P đồng ý và trả lời“Đi trên đường có chỗ nào treo biển mua dầu thì vào bán”. Sau đó T và P đi đến khu Công nghiệp Quang Minh thuộc huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội giao cát. Sau khi giao cát xong T nhận 60 bao tải hạt nhựa trao đổi ion nhãn hiệu Exchangpua để chở về kho của anh T3 tại khu 8, xã G, huyện Thanh Sơn. Do lúc đi không thấy điểm thu mua dầu nên T và P không đi theo đường cũ mà đi về theo hướng từ huyện Sóc Sơn qua cầu Thăng Long vào quốc lộ 32A với mục đích xem có điểm thu mua dầu diesel thì bán. Khoảng 20 giờ 30, khi đến phường P2 Canh, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, T và P thấy có 01 điểm thu mua sắt vụn và dầu xe nên dừng lại để bán dầu. Lúc này T dừng xe vào gặp anh Phạm Văn Trlà chủ cửa hàng và đặt vấn đề muốn bán dầu xe để lấy tiền đi đường.Hai bên thỏa thuận mua bán dầu với giá 360.000đồng/ 01 can 20 lít. Sau đó, P mở nắp bình dầu để anh Tr hút dầu Diezen trong xe ô tô ra 04 can loại can 20 lít (do can cũ bị phồng nên tổng số hút ra được 88 lít dầu) rồi anh Tr trả cho T số tiền là 1.440.000đồng. Sau khi bán dầu được số tiền này, T và P cùng nhau đi ăn uống hết rồi điều khiển xe ô tô về nhà T ở khu Đ, thị trấn Thanh Sơn, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ ngủ.
Khoảng 07 giờ 30 phút ngày 13/02/2022, T điều khiển xe ô tô đến kho của anh T3 tại khu 8, xã G, huyện Thanh Sơn để dỡ hàng xuống còn P tiếp tục ngủ tại nhà T. Khi đến kho, anh Đỗ Ngọc Kh là công nhân của anh T3 đã chuyển 05 bao tải hạt nhựa trao đổi ion xuống, còn để lại 55 bao trên xe. Anh Tỉnh tiếp tục giao cho T chở 55 bao tải hạt nhựa về nhà anh T3 ở huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội và cử anh Kh đi cùng để bốc hàng. Lúc này, T báo cho anh Lăng Duy Đ là nhân viên kế toán của anh T3 là xe hết dầu nên T điều khiển xe ô tô chở anh Kh đi cùng anh Đ đi đến cây xăng Tú Linh thuộc khu Đ - Thị trấn Thanh Sơn mua thêm 335,8 lít dầu đổ vào bình xe, lúc này T tiếp tục nảy sinh ý định bán dầu trong xe ô tô để lấy tiền. Sau đó T điều khiển xe ô tô đón P tại nhà ở của T ở khu Đ, thị trấn Thanh Sơn. Khi P lên xe, P điều khiển còn T ngồi ghế phụ, anh Kh do buổi trưa đã uống nhiều rượu nên nằm ngủ ở phía sau. Lúc này, T báo cho P là xe vừa đổ đầy dầu và nói “Tiền kia tiêu hết rồi làm thế nào, lại bán dầu nhé” thì P đồng ý và nói “Tùy ông, đi trên đường đầy chỗ bán”. T tiếp tục hỏi P “Có chỗ nào bán được cái khác nữa không” ý là bán bao hạt nhựa trên xe, P hiểu ý rồi nói “Có, để gọi cho người ta xem có mua không đã”.T tiếp tục hỏi nếu bị phát hiện thì làm thế nào, P trả lời cứ bán đi P sẽ có cách lo được. Khoảng 15 giờ cùng ngày khi đi đến thôn 5, xã Yên Bình, huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội, T và P thấy biển thu mua dầu nên đỗ xe vào lề đường. Tại đây T gặp anh Nguyễn Hữu T4 và thỏa thuận bán dầu trong xe với giá 340.000đồng / 01 can 20 lít. Sau đó anh T4 hút dầu Diezen từ bình dầu của xe ô tô ra 09 can nhựa loại 20 lít (được tổng 178 lít dầu) rồi trả cho T số tiền 3.000.000 đồng. Trong lúc anh T4 hút dầu thì P lên thùng xe ô tô lấy 10 bao tải hạt nhựa xuống để ở sân nhà anh T4 đồng thời gửi anh T4 trông hộ. Sau đó T và P tiếp tục di chuyển đến nhà anh T3, trên đường đi T chia cho P số tiền 1.500.000đồng là tiền vừa bán dầu . Khi cách nhà anh T3 khoảng 02km thì P xuống xe để tìm chỗ liên hệ bán hạt nhựa còn T điều khiển xe cùng anh Kh đi đến nhà anh T3 giao hạt nhựa.
Khi nhận hàng anh T3 phát hiện thiếu 10 bao tải hạt nhựa nên hỏi T “tại sao thiếu hàng” thì T nói “không biết”.Anh Tỉnh nghi ngờ nên đã kiểm tra hành trình di chuyển của xe, phát hiện thấy xe ô tô do T điều khiển đi không đúng lộ trình, dừng đỗ không đảm bảo thời gian, kiểm tra dầu thấy thiếu hụt bất thường nên yêu cầuT phải chịu trách nhiệm. T đồng ý và nói sẽ làm không công tháng này để trả lại tiền cho anh T3. Anh Tỉnh yêu cầu T phải viết giấy nhận mua 10 bao tải hạt nhựa với giá 9.000.000 đồng và để lại căn cước công dân, Giấy phép lái xe của T để bảo đảm. Sau khi viết giấy xong T điều khiển xe ô tô quay lại đón P.
Bùi Quốc P, sau khi xuống xe đã thuê xe ôm quay lại nhà anh T4 để liên hệ bán 10 bao tải hạt nhựa. Khi đến nhà anh T4, P gọi điện thoại cho anh Nguyễn Đ H1 là chủ cơ sở kinh doanh máy lọc nước tại khu Quyết Tiến, xã Vân Côn, huyện Hoài Đ, thành phố Hà Nội. Sau khi gọi điện và được anh H1 đồng ý mua hạt nhựa với giá là 450.000đồng/01 bao, P thuê xe ba gác chở đến nhà anh H1 bán cho anh H1 được tổng cộng 4.500.000đồng, sau đó thuê xe quay lại vị trí đã xuống xe lúc trước đứng chờ T đón. Sau đó P và T đi về thị trấn Thanh Sơn để P xuống xe tại nhà ở của T, còn T đưa anh Kh về kho ở khu 8, xã G, huyện Thanh Sơn bàn giao xe ô tô. Sau đó T đi về nhà đón P đi ăn đêm tại thị trấn Thanh Sơn, trong khi ăn P chia cho T số tiền 2.300.000đồng là tiền bán 10 bao hạt nhựa; ăn xong cả hai về nhà T ngủ. Hôm sau, T không đến nơi làm việc cho anh T3 mà bỏ đi Việt Trì còn P về nhà mình ở Phù Ninh. Anh Tỉnh không thấy T đến làm việc như đã hứa nên đã đến Công an xã G trình báo toàn bộ sự việc bị chiếm đoạt tài sản của Bùi Đông T như đã nêu trên.
Tại bản cáo trạng số: 52/CT - VKS ngày 09/09/2022 Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Sơn đã truy tố các bị cáo Bùi Đông T, Bùi Quốc P phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”theo quy định tại điểm a, khoản 1 Điều 175 của Bộ luật Hình sự. .
Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T1, giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng: Điểm a Khoản 1 Điều 175; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38-Bộ luật hình sự năm 2015, đối với Bùi Đông T; Điểm a khoản 1 Điều 175, điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 65- Bộ luật hình sự đối với Bùi Quốc P:
Tuyên bố các bị cáo Bùi Đông T và Bùi Quốc P phạm tội “ Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.
Phạt: Bị cáo BùiĐông T từ 18 đến 24 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo T đi chấp hành án.
Bị cáo Bùi Quốc P từ 12 đến 15 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách gấp đôi.
Miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáoBùiĐông T, Bùi Quốc P.
Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng 48 - Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106- BLTTHS; Điều 584, 587, 589- BLDS.
Buộc các bị cáo Bùi Đông T và Bùi Quốc P phải liên đới bồi thường cho anh Đặng Xuân T3 số tiền 11.500.000đ (Mười một triệu năm triệu đồng) giá trị 10 bao hạt nhựa kỷ phần: Bùi Đông T 6.000.000đ; Bùi Quốc P 5.500.000đ.
Đối với anh Phạm Văn Tr, Nguyễn Hữu T4, sau khi tự nguyện giao nộp lại toàn bộ số dầu đã mua của Bùi Đông T đã không đề nghị các bị cáo phải bồi thường cho mình nên không đề cập xử lý.
Về vật chứng vụ án:
Số dầu Diezen 266 lít, ngày 07/8/2022 Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu. Anh Tỉnh đã nhận lại đủ, không có yêu cầu gì.
Quá trình điều tra, anh Đặng Xuân T3 đã giao nộp 01 Giấy phép lái xe và 01 căn cước công dân của bị cáo Bùi Đông T. Đây là giấy tờ cá nhân của bị cáo nên ngày 07/8/2022, Cơ quan điều tra đã trả lại cho bị cáo T xét thấy là phù hợp.
Đối với số tiền 1.200.000 đồng chị Nh tự nguyện giao nộp, hiện được bảo quản tại tài khoản ngân hàng của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thanh Sơn chờ xử lý trong quá trình xét xử.
Các bị cáo T, P không có tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát.
Tại lời nói sau cùng, các bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Thanh Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra các bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa hôm nay, bị hại anh Đặng Xuân T3; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Phạm Văn Tr, anh Lăng Đ H, anh Nguyễn Hữu T4, anh Nguyễn Đ H1, ông Nguyễn Trung K đều vắng mặt. Hội đồng xét xử căn cứĐiều 292, điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự xét xử vắng mặt họ.
[2]. Về tội danh: Tại phiên tòa, các bị cáo Bùi Đông T, Bùi Quốc P khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng đã mô tả, thừa nhận Cáo trạng truy tố không oan, sai, đúng người, đúng tội. Lời khai nhận của các bị cáo đã đượcthẩm tra tại phiên tòa, phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, vật chứng của vụ án và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở để kết luận: Trong hai ngày 12 và 13 tháng 4 năm 2022sau khi nhận được hợp đồng giao vận chuyển tài sản, Bùi Đông T là lái xe vận chuyển hàng hóa cho anh Đặng Xuân T3 đã rủ bạn là Bùi Quốc P cùng đi vận chuyển hàng hóa đến địa điểm đã định theo Hợp đồng. Trong quá trình vận chuyển các bị cáo đã thực hiện hành vi rút 266 lit dầu diezen dầu trong bình xe ô tô do T được giao sử dụngvà 10 bao hạt nhựa Exchangpua của anh Đặng Xuân T3. Tổng trị giá tài sản Bùi Đông T và Bùi Quốc P chiếm đoạt là 16.886.000đồng. Các bị cáo là người đã thành niên, có năng lực trách nhiệm hình sự, do ham chơi, lười lao động lại muốn có tiền tiêu xài nên khi được chủ sở hữu tin tưởng giao vận chuyển tài sản, lợi dụng lòng tin của chủ sở hữu tài sản, các bị cáo đã thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác.Hành vi nêu trên của BùiĐông T, Bùi Quốc P đủ yếu tố cấu thành tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự năm 2015. Xét thấy,Cáo trạng truy tố của Viện Trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Sơn và luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa truy tố các bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3]. Tính chất vụ án là ít nghiêm trọng, nhưng hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Hành vi của các bị cáo còn gây mất an ninh trật tự tại địa P2, tạo tâm lý hoang mang lo sợ trong quần chúng nhân dân. Các bị cáo nhận thức được hành vi Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là trái pháp luật nhưng các bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội đến cùng nhằm mục đích vụ lợi cá nhân, thể hiện sự coi thường pháp luật. Hành vi của các bị cáo cần phải được xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật mới có tác dụng giáo dục riêng và P ngừa chung và làm gương cho người khác.
[4]. Vụ án có đồng phạm nhưng mang tính giản đơn. Khi thực hiện hành vi phạm tội các bị cáo giữ vai trò khác nhau. Xem xét lời khai của các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, lời khai những người làm chứng có mặt tại phiên tòa cùng các tài liệu chứng có tại hồ sơ vụ án đã chứng minh:
Bị cáo Bùi Đông T là người chủ mưu, trực tiếp được chủ sở hữu giao cho quản lý tài sản, nhưng T không làm đúng trách nhiệm của mình, mà trực tiếp rủ Bùi Quốc P cùng đem tài sản của mình được giao quản lý đem đi bán, biết rõ là vi phạm pháp luật, nhưng T vẫn thực hiện hành vi đến cùng nên giữ vai trò chính.
Bị cáo Bùi Quốc P khi được T rủ đem bán tài sản do T đang được giao quản lý, biết rõ là sai không được phép nhưng P vẫn đồng ý, P còn là người trực tiếp liên hệ để tìm người mua tài sản,P là đồng phạm giữ vai trò giúp sức, tích cực để cho Bùi Đông T thục hiện hành vi đến cùng hành vi phạm tội.
[5]. Khi quyết định hình phạt cần xem xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: HĐXX nhât trí với đánh giá về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và đề nghị hình phạt đối với từng bị cáo của Kiểm sát Viên tại phiên tòa bởi lẽ: Trong vụ án này các bị cáo đều không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, nhưng tước lần phạm tội này này các bị cáo có nhân thân khác nhau:
Bị cáo Bùi Đông T có thân nhân xấu, ngày 08/9/2011 bị Tòa án nhân dân huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội, xử phạt bị cáo 18 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”,ngày 03/9/2012 bị cáo đã chấp hành xong toàn bộ bản án.
+ Ngày 31/5/2017 bị Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ,xử phạt bị 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 31/5/2019 bị cáo đã chấp hành xong toàn bộ bản án. Đối với bị cáo Bùi Quốc P: Bị cáo là người sinh ra và lớn lên trong gia đình cơ bản, trước lần phạm tội này bị cáo là người có nhân thân tốt, bản thân bị cáo và gia đình đều chấp hành đúng chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Ngày 12 và 13 tháng 4 năm 2022, do bị bạn bè rủ rê lôi kéo nên bị cáo nhất thời phạm tội, thuộc trừng hợp ít nghiêm trọng. Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo giữ vai trò thứ yếu trong vụ án, khi bị phát tội phạm bị cáo đã chủ động đến cơ quan điều tra đầu thú. Tại cơ qun điều tra bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình.
Căn cứ vào các qui định của Bộ luật hình sự, xét thấy: Bị cáo Bùi Đông T được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại điểm s khoản 1 Điều 51- BLHS; Bị cáo Bùi Quốc P được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự qui định tại điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51- BLHS.
[6]. Căn cứ vào vai trò của các bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm của từng bị cáo trong vụ án, HĐXX xét thấy: Bị cáo Bùi Đông T có nhân thân xấu, tuy đã được xóa án tích nhưngcả 03 lần phạm tội của bị cáo đều xâm phạm quyền sở hữu của người khác, điều đó chứng tỏ bị cáo là người coi thường pháp luật, không có khả năng giáo dục tại cộng đồng nên cần xử phạt bị cáo với hình phạt thật nghiêm khắc, trên mức khởi điểm của khung hình phạt vàcách ly bị cáo ra khỏi cộng đồng xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục đối với cá nhân bị cáo và P ngừa chung trong xã hội.
Đối với bị cáo Bùi Quốc P, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại Điều 51- BLHS, có nơi cư trú rõ ràng, gia đình và bản thân bị cáo đều thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ vụ công dân và qui định tại nơi cư trú, bị cáo là đồng phạm giữ vai trò thứ yếu trong vụ án. Xét thấy bị cáo có đủ điều kiện được hưởng án treo qui định tại Điều 65- BLHS và tinh thần hướng dẫn tại Điều 2 Nghị quyết số 02/2018/NQ- HĐTP, ngày 15/5/2018 và Nghị quyết só 01/2022/NQ-HĐTP, ngày 15/4/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa đã làm rõ, ngoài hành vi phạm tội này, bị cáo P không bị tạm giam về hành vi phạm tội khác nên xem xét áp dụng khoản 4 Điều 328 - BLTTHS, tuyên bố trả tự do cho bị cáo tại phiên tòa.
[7]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 175 của Bộ luật Hình sự thì các bị cáocòn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000đ đến 100.000.000đ, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. Hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Quá trình điều tra và tại phiên tòa đã làm rõ các bị cáo không có tài sản riêng, đều làm lao động tự do, thu nhập không ổn định nên miễn áp dụng hình phạt bổ sung cho các bị cáo.
[8]. Về vật chứng vụ án gồm: 266 lít dầu diezel; 10 bao hạt nhựaion, nhãn hiệu Exchangpua; 1.200.000đ. Quá trình điều tra, anh Phạm Văn Tr, Nguyễn Hữu T4- là người đã mua của T và P, hai anh tự nguyện giao nộp tại Cơ quan điều tra Công an huyện Thanh Sơn và không yêu cầu các bị cáo phaỉ hoàn trả số tiền đã mua dầu. Số tiền 1.200.000đ, chị Nh vợ bị cáo T đã nộp tại Cơ quan điều tra, hiện đang được tạm giữ tại kho bạc Nhà nước huyện Thanh Sơn, đây là tiền do phạm tội mà có cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.
[9]. Trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa đã làm rõ tài sản các bị cáo chiếm đoạt của anh Nguyễn Xuân T3 gồm: 266 lít dầu diezenl. Ngày 07/8/23022, Cơ quan điều tra đã tra 266 lít dầu diezenl cho anh T3 đã nhận đủ và không có yêu cầu gì. Anh Tỉnh yêu cầu các bị cáo phải bồi thường giá trị 10 bao hạt nhựaion, nhãn hiệu Exchangpua bán cho anh Nguyễn Đ H1, là chủ cơ sở kinh doanh máy lọc nước tại khu Quyết Tiến, xã Vân Côn, huyện Hoài Đ- Hà Nội. Sau khi mua, anh H1 đã đưa vào sản xuất theo qui trình nên không thu hồi được. HDĐG tài sản đã định giá 10 bao hạt nhựa ion, nhãn hiệu Exchangpua, trị giá 11.500.000đ nên buộc các bị cáo BùiĐông T và Bùi Quốc P phải liên đới bồi thường cho anh Đặng Xuân T3 số tiền 11.500.000đ giá trị 10 bao hạt nhựa là cócăn cứ qui định tại 584; 598- BLDS 2015. Tại phiên tòa các bị cáo tự nguyện thống nhất: T bồi thường 6.000.000đ; Bùi Quốc P 5.500.000đ.
Số dầu anh Phạm Văn Tr, anh Nguyễn Đ T4 và Nguyễn Đ T3 mua ngay tình của Bùi Đông T, đã tự nguyện nộp lại toàn bộ cho Cơ quan điều tra để trả cho bị hại, Các anh Tr, T4 H1 không yêu cầu các bị cáo phải hoàn trả số tiền đã mua dầu nên HĐXX không xem xét.
[10]. Các nội dung khác:
Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 83/LCCT-TA, ngày 17/6/2022 của Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyên Thanh Sơn áp dụng đối với Bùi Đông T đã hết hiệu lực nên HĐXX không xem xét.
Đối với anh Phạm Văn Tr, Nguyễn Hữu T4 và Nguyễn Đ H1 là những người đã mua tài sản của T và P, quá trình mua bán T và P đều nói đây là tài sản của mình nên anh Tr, anh T4 và anh H1 mới đồng ý mua. Do vậy, Cơ quan điều tra không đề cập xử lý là phù hợp.
Đối với chị Nguyễn Thị Nh, khi T đưa cho chị Nh số tiền 1.200.000 đồng, T nói đây là tiền ứng được khi đi làm đưa cho chị Nh chi tiêu sinh hoạt, không nói đây là tài sản do phạm tội mà có. Do vậy, Cơ quan điều tra không đề cập xử lý .
Đối với anh Đỗ Ngọc Kh là người đi cùng xe với T, P trong ngày 13/4/2022. Tuy nhiên, buổi trưa ngày 13/4/2022, anh Kh uống nhiều rượu bị say nên đã ngủ suốt quá trình di chuyển của xe. Anh Kh không biết và không liên quan đến hành vi phạm tội của T và P nên cơ quan điều tra không xử lý là phù hợp.
Quá trình điều tra, anh Đặng Xuân T3 đã giao nộp 01 Giấy phép lái xe và 01 căn cước công dân của bị can Bùi Đông T. Đây là giấy tờ cá nhân của bị cáo, không liên quan hành vi phạm tội nên ngày 07/8/2022, Cơ quan điều tra đã trả lại cho bị cáo T xét thấy là phù hợp.
[11]. Về án phí: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm, án phí dân sự trong vụ án hình sự theo quy định của pháp luật.
Các bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng: Điểm a khoản 1 Điều 175 - Bộ luật hình sự năm 2015.
Tuyên bố: Các bị cáoBùi Đông T, Bùi Quốc P phạm tội“Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.
Áp dụng điểm a, khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 - Bộ luật hình sự năm 2015.
Xử phạt: Bị cáo Bùi Đông T24 (Hai mươi bốn) tháng tù, Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo T đi chấp hành án.
Áp dụng điểm a, khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Khoản 1+2+5 Điều 65- Bộ luật hình sự năm 2015; Khoản 4 Điều 328- BLTTHS 2015.
Xử phạt: Bị cáo Bùi Đông T 12 (Mười hai) tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 (Hai mươi bốn) tháng. Thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo cho UBND T, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ, giám sát giáo dục. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa P2 trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.
Bị cáo P phải thực hiện nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo qui định của Luật thi hành án hình sự.
Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cơ trú thì phải thực hiện theo qui định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự 2019.
Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo qui định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì có thể buộc phải chấp hành hình phạt tù của Bản án đã cho hưởng án treo.
Tuyên bố trả tự do tại phiên tòa cho bị cáo Bùi Quốc P.
Miễn hình phạt bổ sung cho bị các cáo.
Về trách nhiệm dân sự: Điều 584, 587, 589– BLDS 2015.
Buộc các bị cáo BùiĐông T và Bùi Quốc P phải liên đới bồi thường cho anh Đặng Xuân T3 số tiền 11.500.000đ (Mười một triệu năm triệu đồng).
Kỉ phần: Bị cáo Bùi Đông T :6.000.000đ (Sáu triệu đồng).
Bị cáo Bùi Quốc P : 5.500.000đ (Năm Triệu năm trăm nghìn đồng).
Kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật, anh T3có đơn yêu cầu thi hành án mà các bị cáo T, P không thực hiện nghĩa vụ T1 toán số tiền phải bồi thường cho anh T3, thì ngoài số tiền phải trả,các bị cáo còn phải trả lãi cho đến khi thi hành án xong đối với số tiền chậm trả theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật dân sư 2015.
Về xử lý vật chứng: Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền 1.200.000đ (Một triệu hai trăm nghìn đồng), do phạm tội mà có. Số tiền trên đang được tạm giữ tại số: 3941.0.9044309.00000, tại kho bạc Nhà nước huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.
Xác nhận biên bản trả lại tài sản, đồ vật cho anh Nguyễn Xuân T3 và bị cáo Bùi Đông T lập ngày 07/8/2022, của Cơ quan điều tra Công an huyện Thanh Sơn là hợp pháp.
Về án phí:
Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;Điểm a,c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo BùiĐông T, Bùi Quốc P mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩmvà 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Các bị cáo, người có quyền lợi ngĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại UBND xã nơi cư trú để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm.
"Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 - Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7, 7a,7b và 9 luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 luật thi hành án dân sự."
Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 51/2022/HS-ST
Số hiệu: | 51/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thanh Sơn - Phú Thọ |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 03/11/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về