TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN PHONG, TỈNH BẮC NINH
BẢN ÁN 39/2023/HS-ST NGÀY 11/04/2023 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 11 tháng 4 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Y, tỉnh B mở phiên toà để xét xử sơ thẩm công khai hình thức trực tuyến vụ án hình sự thụ lý số: 21/2023/HSST, ngày 14 tháng 3 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 29/2023/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 3 năm 2023 đối với bị cáo:
Phùng Trung K, sinh năm 1994.
Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; HKTT: thôn TH, xã YH, huyện ĐT, tỉnh HT; Chỗ ở hiện nay: thôn Ấp Đồn, xã Yên Trung, huyện Y, tỉnh B; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Họ và tên bố: Phùng V C, sinh năm: 1969; Họ và tên mẹ: Nguyễn Thị L, sinh năm 1970; Gia đình bị cáo có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất; Vợ, con: không; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/12/2022 đến nay. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh B, có mặt tại điểm cầu Trại tạm giam Công an tỉnh B.
Bị hại: Anh Hoàng Văn C, sinh năm 2003. Vắng mặt.
Nơi ĐKHKTT: Bản Trỏ, xã Huy Bạ, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La.
Chỗ ở hiện nay: Thôn Ấp Đồn, xã Yên Trung, huyện Y, tỉnh B.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Quang T, sinh năm 1990.
Vắng mặt.
Trú tại: Thôn Ấp Đồn, xã Yên Trung, huyện Y, tỉnh B.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Phùng Trung K, sinh năm 1994, nơi cư trú tại thôn TH, xã YH, huyện ĐT, tỉnh HT cùng làm Công ty S – Khu công nghiệp, huyện Y và cùng thuê trọ tại Ấp Đồn, Yên Trung, Y, B với anh Hoàng V C, sinh năm 2003 ở Bản Trỏ, xã Huy Hạ, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La. Khoảng 7 giờ 00 ngày 26/12/2022, Knhờ anh C qua phòng trọ đón K để đi làm. Anh C đồng ý và điều khiển xe mô tô hiệu Honda Wave biển kiểm soát 26D1-xxxxx, số máy: JA39E2344420, số khung: RLHJA3920MY225436 của anh C đến đón K. Sau đó, K điều khiển xe mô tô của anh C chở anh C đến Công ty S. Khi đến Công ty, anh C đi vào làm trước còn Kcất xe vào nhà xe của Công ty. Lúc này K nhớ ra bản thân không có lịch đi làm, nên K đã tự ý lấy xe của anh C đi về phòng trọ của K. Khi về tới phòng trọ, lúc này do không có tiền tiêu sài cá nhân, nên Knảy sinh ý định đem chiếc xe của anh C đi cầm cố lấy tiền tiêu sài. K điều khiển xe của anh C đến cửa hàng cầm đồ 1983 ở thôn Ấp Đồn, xã Yên Trung, huyện Y do anh Nguyễn Quang T, sinh năm 1990 làm chủ. Anh T hỏi K về giấy tờ xe thì K nói chiếc xe này là của Kmua lại của người khác, rồi đưa giấy tờ xe ở trong cốp xe, cùng chứng minh nhân dân của K cho anh T. Anh T đồng ý cầm cố cho Kvới số tiền 13.000.000 đồng. Anh T trừ 400.000 đồng tiền lãi cầm cố từ ngày 26/12/2022 đến ngày 05/01/2023 và đưa cho Ksố tiền 12.600.000 đồng. Số tiền trên Ktiêu sài cá nhân hết. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, sau khi tan làm, anh C đòi Kxe nhưng K nói đã cầm cố chiếc xe trên. Ngày 27/12/2022, do không thấy Ktrả lại chiếc xe trên nên anh C đã làm đơn trình báo đến Công an huyện Y. Cùng ngày, nhận thấy hành vi của bản thân là vi phạm pháp luật, nên Phùng Trung K đã đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Y đầu thú.
Ngày 28/12/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Y ra Quyết định trưng cầu Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Y định giá giá trị chiếc xe mô tô biển kiểm soát 26D1- xxxxx của anh Hoàng V C.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số: 103/KLĐG ngày 29/12/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Y kết luận: “01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, trắng đen bạc, biển kiểm soát 26D1- xxxxx, đã qua sử dụng có giá trị tại thời điểm xảy ra vụ việc là 18.000.000 đồng.
Về thu giữ và xử lý vật chứng:
Ngày 27/12/2022, anh Nguyễn Quang T đã tự nguyện giao nộp xe mô tô Honda Wave cho cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Y, giấy tờ cầm cố chiếc xe, 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Phùng Trung K .
Ngày 09/01/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Y đã trả lại chiếc xe mô tô cho chủ sở hữu là anh Hoàng V C là phù hợp.
Phùng Trung K tự nguyện giao nộp 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu iphone 7 Plus màu đen đã qua sử dụng, số seri DX3WKC8QHG04 bên trong có lắp sim số 0985.416.xxx. Quá trình điều tra xác định đây là điện thoại di động của K, Kkhông sử dụng vào mục đích phạm tội.
Về bồi thường dân sự: Anh C đã nhận lại tài sản không yêu cầu K phải bồi thường gì về dân sự. Anh Nguyễn Quang T không yêu cầu K phải trả lại số tiền 13.000.000 đồng tiền cầm cố xe.
Tại Cơ quan điều tra bị cáo Phùng Trung K đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình như đã nêu ở trên.
Cáo trạng số 24/CT - VKSYP ngày 13/3/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Y truy tố Phùng Trung K về tội "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản" theo điểm b khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa:
Bị cáo khai nhận: Khoảng 08 giờ ngày 26/12/2023, tại phòng trọ của Phùng Trung K ở thôn Ấp Đồn, xã Yên trung, huyện Y, tỉnh B, sau khi điều khiển chiếc xe mô tô Honda Wave biển kiểm soát 26S1-xxxxx của anh Hoàng V C đưa anh C đi làm, K đã đem chiếc xe mô tô trên cầm cố cho anh Nguyễn Quang T lấy số tiền 12.600.000 đồng mà không được sự đồng ý của anh C. K đã tiêu sài hết số tiền cầm cố xe và không có khả năng chuộc lại chiếc xe trả cho anh C. Chiếc xe K đã chiếm đoạt của anh C có giá trị 18.000.000 đồng.
Anh Hoàng V C - Người bị hại vắng mặt tại phiên tòa nhưng tại cơ quan điều tra đã trình bày: Anh không đồng ý cho Kđem xe của anh đi cầm cố lấy tiền, trước khi đem xe đi Kkhông hỏi ý kiến anh và không biết Kđem xe đi cầm cố từ khi nào. Anh không có đề nghị gì về bồi thường dân sự do cơ quan Công an đã lấy lại chiếc xe máy cho anh.
Anh Nguyễn Quang T – Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa nhưng tại cơ quan Công an trình bày: Anh có cầm cố chiếc xe máy Hon da Wave BKS: 26D1 – xxxxx với giá 13.000.000 đồng. Anh đã chuyển khoản cho Kmột lần 8.000.000 đồng, một lần 2.900.000 đồng và 1.700.000 đồng tiền mặt sau khi trừ đi 400.000 đồng tiền lãi từ ngày 26/12/2022 đến ngày 05/01/2023. Anh không có đề nghị gì về bồi thường dân sự.
Cũng tại phiên toà hôm nay Đ diện VKSND huyện Y tham gia phiên tòa đã khẳng định: Ngày 26/12/2023, Phùng Trung K sau khi điều khiển chiếc xe mô tô Honda Wave biển kiểm soát 26S1-xxxxx của anh Hoàng V C đưa anh C đi làm, K đã đem chiếc xe mô tô trên cầm cố cho anh Nguyễn Quang T lấy số tiền 12.600.000 đồng mà không được sự đồng ý của anh C chiếc xe có giá trị 18.000.000 đồng, nên đã giữ nguyên bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố Phùng trung Kphạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản". Sau khi phân tích tính chất của vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như nhân thân của bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 175; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 BLHS; khoản 4 Điều 328 BLTTHS, tuyên phạt Phùng Trung K với mức án từ 10 tháng đến 12 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 20 tháng đến 24 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Trả tự do ngay cho bị cáo nếu không bị tạm giam về một tội phạm khác.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về xử lý vật chứng: Đối với chiếc điện thoại Iphone 7 Plus màu đen (đã qua sử dụng) số seri DX3WKC8QHG04 bên trong có lắp sim số 0985.416.xxx thu giữ của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo.
Trả lại bị cáo 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Phùng Trung K .
Về trách nhiệm dân sự: Anh C đã nhận lại tài sản không yêu cầu K phải bồi thường gì về dân sự. Anh Nguyễn Quang T không yêu cầu K phải trả lại số tiền 13.000.000 đồng tiền cầm cố xe, nên không xem xét.
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác tại phiên toà.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Y, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Y, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do vậy các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng trên đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa bị cáo Kthành khẩn nhận tội, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, phù hợp với kết quả tranh luận tại phiên tòa. Vì vậy, có đủ cơ sở để khẳng định: Khoảng 08 giờ ngày 26/12/2022, tại phòng trọ của Phùng Trung K ở thôn Ấp Đồn, xã Yên trung, huyện Y, tỉnh B, sau khi điều khiển chiếc xe mô tô Honda Wave biển kiểm soát 26S1-xxxxx của anh Hoàng V C đưa anh C đi làm, K đã đem chiếc xe mô tô trên cầm cố cho anh Nguyễn Quang T lấy số tiền 12.600.000 đồng mà không được sự đồng ý của anh C. K đã tiêu sài hết số tiền cầm cố xe và không có khả năng chuộc lại chiếc xe trả cho anh C. Chiếc xe K đã chiếm đoạt của anh C có giá trị 18.000.000 đồng. Do vậy Đ diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Y tham gia phiên toà đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố Phùng Trung K phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” là có căn cứ, đúng pháp luật. Tổng giá trị tài sản và tiền Kchiếm đoạt tài sản của anh C là 12.600.000 đồng nên hành vi của bị cáo phạm vào điểm b khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự..
Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và nhân thân bị cáo:
Về tình tiết tăng nặng: Không có tình tiết tăng nặng đối với bị cáo.
Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Quá trình điều tra bị cáo khai báo thành khẩn và tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của bản thân. Sau khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đã đến Công an huyện Y đầu thú, bị cáo có thời gian phục vụ trong Q đội được tặng danh hiệu Chiến sỹ tiên tiến, người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Vì vậy, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, xét thấy có đủ điều kiện được hưởng án treo. Hội đồng xét xử xét thấy cho bị cáo cải tạo tại địa phương cũng đủ giáo dục bị cáo.
[3] Về xử lý vật chứng:
Đối với chiếc điện thoại Iphone 7 Plus màu đen (đã qua sử dụng) số seri DX3WKC8QHG04 bên trong có lắp sim số 0985.416.xxx thu giữ của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo.
Trả lại bị cáo 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Phùng Trung K (Trả tại Tòa án nhân dân huyện Y).
[4] Về trách nhiệm dân sự:
Anh C đã nhận lại tài sản không yêu cầu K phải bồi thường gì về dân sự. Anh Nguyễn Quang T không yêu cầu K phải trả lại số tiền 12.600.000 đồng tiền cầm cố xe, nên không xem xét.
[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Phùng Trung K phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.
Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 175; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự; khoản 4 Điều 328 Bộ luật tố tụng hình sự.
Xử phạt: Phùng Trung K 09 (Cn) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách là 18 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Trả tự do ngay cho bị cáo nếu không bị tạm giam về một tội phạm khác.
Giao cho UBND xã YH, huyện ĐT, tỉnh HT giám sát, giáo dục các bị cáo Phùng Trung K trong thời gian thử thách.
Nếu bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo qui định tại Điều 92 Luật Thi hành án hình sự; Nếu bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 2 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án này.
2. Về vật chứng: Áp dụng Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
Trả lại cho bị cáo 01 chiếc điện thoại Iphone 7 Plus màu đen (đã qua sử dụng) số seri DX3WKC8QHG04 bên trong có lắp sim số 0985.416.xxx.
Trả lại bị cáo 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Phùng Trung K .(Trả lại tại Tòa án nhân huyện Y).
3. Về trách nhiệm dân sự: Không xem xét giải quyết.
4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 332, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.
Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 39/2023/HS-ST
Số hiệu: | 39/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Yên Phong - Bắc Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 11/04/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về