Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 361/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 361/2023/HS-PT NGÀY 13/06/2023 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 927/2022/HSPT ngày 27/12/2022. Do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Duy T đối với bản án hình sự sơ thẩm số 32/2022/HS-ST ngày 17/11/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu.

Bị cáo có kháng cáo, bị kháng cáo: NGUYỄN DUY T; sinh năm: 1991, tại: tỉnh Bình Thuận. Hộ khẩu thường trú: Thôn Đ, xã H, huyện H, tỉnh Bình Thuận; Nơi ở: Khu phố A, thị trấn M, huyện H, tỉnh Bình Thuận. Nơi tạm trú: Khóm A, Phường G, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu; Nghề nghiệp: Kinh doanh; Trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Ngọc S, sinh năm 1965 và bà Trương Thị B, sinh năm 1962; Tiền án, tiền sự: Chưa có; Bị cáo bị tạm giam từ ngày 06/01/2022 đến nay (có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Lâm Quốc T1 là Luật sư Công ty L1 thuộc đoàn luật sư tỉnh B (có mặt).

- Bị hại: Ông Trần Quốc L, sinh năm 1957; Địa chỉ: ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp (có mặt);

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Bà Nguyễn Thị P, sinh năm 1958; Địa chỉ: ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp (vắng mặt);

Ông Đoàn Văn N, sinh năm 1976; Nơi cư trú: Số C; đường L; Khóm C, phường A, thành phố H, tỉnh Đồng Tháp (có mặt);

Ông Dương Văn T3, sinh năm 1970; Nơi cư trú: ấp T, thị trấn H, huyện H, tỉnh Bạc Liêu (xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong khoảng thời gian từ tháng 07 đến tháng 8/2020, Nguyễn Duy T đã ký hợp đồng thuê 04 chiếc xe cuốc của ông Trần Quốc L để phục vụ thi công một số hạng mục công trình trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu. Trong quá trình thi công, do thiếu nợ nhiều người, T đã tự ý đem 04 chiếc xe cuốc của ông L đi thế chấp, cầm cố và bán cho người khác mà không có sự đồng ý của ông L, cụ thể như sau:

- Lần thứ nhất: Ngày 11/7/2020, T trực tiếp đến nhà ông L tại ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp ký hợp đồng thuê chiếc xe cuốc nhãn hiệu KOMATSU số hiệu 120PC-04, thời hạn 12 tháng, giá thuê 30.000.000 đồng/tháng, thỏa thuận thanh toán tiền thuê xe vào ngày 30 hàng tháng. Sau khi ký hợp đồng xong T nhận xe đưa về Bạc Liêu, sau đó đem đi thi công công trình tại khóm N, phường N và Phường H, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu. Trong thời gian này, T có mua vật liệu xây dựng tại Chi nhánh Cửa hàng vật liệu xây dựng Nguyễn M (do ông Nguyễn Quốc H làm cửa hàng trưởng), địa chỉ Đường B, khóm T, Phường H, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu để thi công một số hạng mục công trình điện năng lượng mặt trời tại huyện H, nợ số tiền 52.700.000 đồng. Do không có tiền trả nợ, nên ngày 16/8/2020, T đem xe đến thế chấp cho ông Nguyễn Quốc H để bảo đảm nợ. Đồng thời, Tân hứa khi nào có tiền sẽ đến trả rồi lấy xe về, nhưng sau đó T không liên lạc với ông H để trả tiền và nhận lại xe. Quá trình điều tra, ông H đã tự nguyện giao nộp chiếc xe trên cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B. Ngày 19/11/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã giao trả lại chiếc xe nêu trên cho ông Trần Quốc L. - Lần thứ hai: Ngày 12/8/2020, T tiếp tục ký hợp đồng với ông L thuê chiếc xe cuốc nhãn hiệu KOMATSU số hiệu 120PC-05, thời hạn 12 tháng, giá thuê 30.000.000 đồng/tháng, thỏa thuận thanh toán tiền thuê xe vào ngày 30 hàng tháng. Ông L vận chuyển, bàn giao xe cho T tại Khu dân cư T, Khóm A, Phường G, thành phố B. Sau đó, khoảng một đến hai ngày, ông L đưa hợp đồng thuê xe đã soạn sẵn cho T ký. Sau khi nhận xe, T đem đi làm công trình năng lượng mặt trời tại xã L, huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu. Quá trình thi công tại đây, T có thuê sà lan và xe cuốc của ông Nguyễn Quốc M1 nên nợ ông M1 số tiền 100.000.000 đồng. Do không có tiền trả nợ, ông M1 ngăn cản không cho T tiếp tục làm công trình, nên ngày 02/9/2020, T đem xe trên đến thế chấp cho ông M1 và thỏa thuận 01 tuần sau T sẽ trả tiền cho ông M1 để lấy xe về. Tuy nhiên, sau đó T không đến và cũng không liên lạc với ông M1. Quá trình điều tra, ông M1 đã tự nguyện giao nộp lại chiếc xe nêu trên cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B. Ngày 19/01/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã giao trả lại chiếc xe nêu trên cho ông Trần Quốc L. - Lần thứ ba: Ngày 17/8/2020, T tiếp tục ký hợp đồng với ông L thuê chiếc xe cuốc nhãn hiệu SUMITOMO S280, thời hạn 12 tháng, giá thuê 30.000.000 đồng/tháng, thỏa thuận thanh toán tiền thuê xe vào ngày 30 hàng tháng. T trực tiếp đến nhà ông L nhận xe, vận chuyển xe về huyện H, tỉnh Bạc Liêu làm công trình. Sau khi sử dụng xe cuốc thi công được một thời gian, do không có tiền trả lương cho công nhân và mua vật tư, nên ngày 29/8/2020, T bán xe cuốc trên cho ông Dương Văn T3 với số tiền 142.500.000 đồng. Khi mua bán, T và ông T3 thỏa thuận trong hợp đồng giá mua bán là 150.000.000 đồng, trong thời gian 30 ngày từ ngày ký hợp đồng, nếu T có nhu cầu nhận lại xe thì trả lại cho ông T3 số tiền 150.000.000 đồng, ông T3 sẽ cho T nhận lại xe, nếu T không nhận lại xe thì ông T3 sẽ bán xe để thu hồi vốn. Tuy nhiên, sau 30 ngày T không đến nhận lại xe nên ông T3 bán chiếc xe cuốc trên cho một người thu mua phế liệu (không rõ nhân thân) với giá 170.000.000 đồng. Ngày 22/6/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh B đã có thông báo truy tìm vật chứng đối với chiếc xe nêu trên nhưng chưa thu hồi được.

- Lần thứ tư: Ngày 31/8/2020, T tiếp tục ký hợp đồng với ông L thuê chiếc xe cuốc nhãn hiệu KOBELCO PC50UU, thời hạn 12 tháng, giá thuê 30.000.000 đồng/tháng, thỏa thuận thanh toán tiền thuê xe vào ngày 30 hàng tháng. Sau đó, ông L giao xe cho T tại Khu dân cư T, Khóm A, Phường G, thành phố B. T sử dụng xe làm công trình năng lượng mặt trời tại huyện H, tỉnh Bạc Liêu khoảng 20 ngày, do chưa thanh toán số tiền 50.000.000 đồng thuê xe cuốc của ông Lê Vũ K nên ông K ngăn cản không cho thi công. Do đó, đến đầu tháng 9/2020 (không nhớ thời gian cụ thể), T đem chiếc xe cuốc trên thế chấp cho ông K và hứa 03 ngày sau sẽ đến trả tiền và lấy xe về. Tuy nhiên, sau đó T không thực hiện, nên ngày 23/9/2020, ông K nhờ Lưu Ngọc V đem xe cuốc trên đến cầm cho bà Lê Thị Hồng H1 (do ông Phạm Văn S1 chồng bà H1 giao dịch) với số tiền là 60.000.000 đồng. Quá trình điều tra, ông K chuộc lại xe và tự nguyện giao nộp cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B. Ngày 19/11/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã giao trả lại chiếc xe nêu trên cho ông Trần Quốc L. Tại Bản kết luận định giá số: 02/KL-HĐĐGĐTS, ngày 08/01/2021 của Hội đồng định giá tài sản thành phố B, kết luận:

- 01 (một) chiếc xe cuốc hiệu Komatsu 120PC-04, số khung: 203-01-41111- OY, số máy: 6206-21-1111, do N1 sản xuất, đã qua sử dụng. Tính đến ngày 29/9/2020 có giá trị thành tiền còn lại là 110.000.000 đồng.

- 01 (một) chiếc xe cuốc hiệu Komatsu 120PC-05, số khung: 203-01-41111- OY, số máy: 6206-21-1111B, do Nhật sản xuất, đã qua sử dụng. Tính đến ngày 29/9/2020 có giá trị thành tiền còn lại là 90.000.000 đồng.

- 01 (một) chiếc xe cuốc hiệu Sumitomo S280, số khung: LS280-3436, số máy: EL100 13931, do N1 sản xuất, đã qua sử dụng. Do trong yêu cầu định giá bị hại mua xe đã qua sử dụng từ người khác, không xác định được thời gian mua xe ban đầu nên không xác định được tỷ lệ còn lại, mặc khác tài sản không còn: không định giá được.

- 01 (một) chiếc xe cuốc hiệu Kobeleo PC50UU, số khung: không xác định được do hình ảnh bị mờ, số máy: 3D95S20532, do Nhật sản xuất, đã qua sử dụng. Tính đến ngày 29/9/2020 có giá trị thành tiền còn lại là 127.500.000 đồng.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số: 18/KL-HĐĐGTS, ngày 25/3/2021 của Hội đồng định giá tài sản thành phố B, kết luận: 01 (một) chiếc xe cuốc hiệu Sumitomo S280, số khung: LS280-3436, số máy: EL100 13931, do N1 sản xuất, đã qua sử dụng. Tính đến ngày 29/9/2020 có giá trị thành tiền còn lại là 228.000.000 đồng.

Tổng giá trị 04 xe, qua định giá là 555.500.000 đồng.

Tại bản Cáo trạng số 34/CT-VKS-P1 ngày 30 tháng 8 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bạc Liêu truy tố bị cáo Nguyễn Duy T, về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 4 Điều 175 Bộ luật Hình sự.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 32/2022/HS-ST ngày 17/11/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu đã tuyên xử:

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Duy T, phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

2. Áp dụng khoản 4 Điều 175, điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Duy T 12 (mười hai) năm tù. Thời điểm chấp hành hình phạt tù tính kể từ ngày 06/01/2022.

Ngoài ra, bản án còn quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí, quyền thi hành án, quyền kháng cáo theo quy định.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 22/11/2022 bị cáo Nguyễn Duy T có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Ngày 10/12/2022, người bị hại ông Trần Quốc L có đơn kháng cáo yêu cầu buộc bị cáo T trả tiền thuê xe 167.000.000đ và tiền chiếc xe cuốc hiệu Sumitomo S280 có giá mua là 600.000.000đ.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Duy T, người bị hại ông Trần Quốc L vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phát biểu:

Về thủ tục tố tụng: Người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, kháng cáo của bị cáo, người bị hại trong hạn luật định. Về nội dung vụ án đúng như chủ tọa phiên tòa tóm tắt.

Về nội dung, xét kháng cáo về phần hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Duy T, đại diện Viện kiểm sát phân tích về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nhận thấy mức án 12 năm tù là có căn cứ, đúng người đúng tội, đúng pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ nào mới nên không có cơ sở chấp nhận. Xét kháng cáo của người bị hại: Đối với tiền thuê xe, bị hại cho bị cáo thuê 4 chiếc xe với số tiền 167.000.000đ, bị cáo cũng thừa nhận chưa trả tiền này, tuy nhiên đây là một giao dịch dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét theo quy định. Đối với yêu cầu trả tiền bán xe là 600.000.000đ, theo kết luận định giá tài sản thì giá trị xe là 280.000.000đ nên kháng cáo này không có cơ sở chấp nhận. Từ đó đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và người bị hại, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Luật sư Lâm Quốc T bào chữa cho bị cáo Nguyễn Duy T trình bày: Thống nhất về tội danh, tuy nhiên về hình phạt thì mức án 12 năm tù mà cấp sơ thẩm áp dụng là nghiêm khắc vì nguyên nhân phạm tội là do chủ nợ vây ép bị cáo nên bị cáo phải phạm tội để có tiền trả nợ nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Về kháng cáo của bị hại, đối với số tiền thuê xe 167.000.000đ, bị cáo thừa nhận và đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định cua pháp luật. Về yêu cầu tăng giá trị chiếc xe Sumitomo S280 là không có cơ sở nên đề nghị không chấp nhận kháng cáo của người bị hại.

Bị cáo thống nhất với lời bào chữa của Luật sư, không tranh luận bổ sung.

Người bị hại ông Trần Quốc L trình bày ông đã chụp hình, quay phim báo cho ông T2 biết xe của ông L đang nằm trong gara của ông T2 nên ông không được bán nhưng ông T2 vẫn tẩu tán tài sản. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận kháng cáo của người bị hại.

Bị cáo nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt để bị cáo được sớm trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Duy T, người bị hại Trần Quốc L trong hạn luật định, hợp lệ nên đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.

Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng về thẩm quyền trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Xét kháng cáo của bị cáo:

[2.1] Về tội danh: Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra; phù hợp với lời khai của bị hại cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ căn cứ kết luận:

Từ ngày 11/7/2020 đến ngày 31/8/2020 bị cáo Nguyễn Duy T đã có hành vi ký hợp đồng thuê 04 xe cuốc đất của bị hại Trần Quốc L để thi công công trình trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu; Sau đó, bị cáo đã thế chấp 03 xe cho người khác để trừ nợ, bán 01 xe cho ông Dương Văn T3. Qua định giá 04 xe bị cáo chiếm đoạt của bị hại Trần Quốc L có giá trị bằng 555.500.000 đồng.

Với hành vi nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 4 Điều 175 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật, không oan, không sai.

[2.2] Về hình phạt:

Hành vi của bị cáo Nguyễn Duy T là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của bị hại mà còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội. Cần phải được xử phạt nghiêm theo tội danh và hình phạt mà điều luật đã quy định, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian dài để răn đe, giáo dục bị cáo cũng như có tác dụng phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.

Tòa án cấp sơ thẩm khi lượng hình đã xét bị cáo Nguyễn Duy T nhiều lần thực hiện hành vi phạm tội nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội 02 lần trở lên” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự; Về tình tiết giảm nhẹ là Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự là có cơ sở.

Từ đó Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo với mức án 12 năn tù là đã có xem xét, tương xứng với tính chất, mức độ và hậu quả của hành vi phạm tội của bị cáo.

Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không nộp được tài liệu, chứng cứ mới so với các tình tiết đã được cấp sơ thẩm áp dụng nên Hội đồng xét xử không có cơ sở chấp nhận yêu cầu kháng cáo về phần hình phạt đối với bị cáo.

[3] Xét kháng cáo của người bị hại:

[3.1] Xét kháng cáo về buộc bị cáo T trả tiền thuê xe 167.000.000đ:

Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo thừa nhận số tiền thuê xe của ông L1 là 167.000.000đ và bị cáo đã thanh toán tiền thuê xe cho ông L số tiền 167.000.000đ.

Hội đồng xét xử xét thấy đây là sự tự nguyện của bị cáo nên được ghi nhận.

[3.2] Xét kháng cáo về giá trị chiếc xe cuốc hiệu Sumitomo S280 có giá là 600.000.000đ:

Tại phiên tòa phúc thẩm, ông L cho rằng căn cứ để xác định giá trị chiếc xe cuốc hiệu Sumitomo S280 do ông N mua có giá mua là 600.000.000đ, nhưng cả ông N và ông L không có tài liệu chứng cứ về lời khai nại này như hợp đồng mua bán, thông tin người bán xe để Hội đồng xét xử thẩm tra, xem xét.

Do đó cấp sơ thẩm căn cứ Bản kết luận định giá tài sản số 18/KL-HĐĐGTS, ngày 25/3/2021 của Hội đồng định giá tài sản thành phố B, kết luận: 01 (một) chiếc xe cuốc hiệu Sumitomo S280, số khung: LS280-3436, số máy: EL100 13931, do N1 sản xuất, đã qua sử dụng. Tính đến ngày 29/9/2020 có giá trị thành tiền còn lại là 228.000.000 đồng là có cơ sở, kháng cáo của ông L về nội dung này là không có căn cứ để chấp nhận.

Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử chấp nhận một phần đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, không chấp nhận lời trình bày của bị cáo cũng như lời bào chữa của Luật sư, chấp nhận một phần kháng cáo của người bị hại, sửa một phần bản án sơ thẩm về phần trách nhiệm dân sự.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Về án phí hình sự: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Do kháng cáo được chấp nhận một phần nên người bị hại không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a,b khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015,

- Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Duy T. - Chấp nhận một phần kháng cáo của người bị hại Trần Quốc L. Sửa một phần Bản án hình sự sơ thẩm số 32/2022/HS-ST ngày 17/11/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu về phần trách nhiệm dân sự.

Tuyên xử:

1/ Tuyên bố bị cáo Nguyễn Duy T, phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

2/ Áp dụng khoản 4 Điều 175, điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Duy T 12 (mười hai) năm tù. Thời điểm chấp hành hình phạt tù tính kể từ ngày 06/01/2022.

3/ Về trách nhiệm dân sự:

- Buộc bị cáo Nguyễn Duy T về việc thanh toán tiền thuê xe cho ông Trần Quốc L số tiền 167.000.000đ.

- Buộc bị cáo Nguyễn Duy T có nghĩa vụ trả cho bị hại Trần Quốc L giá trị xe cuốc hiệu SUMITOMO S280 với số tiền bằng 228.000.000 đồng.

4/ Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

5/ Án phí phúc thẩm:

- Buộc bị cáo Nguyễn Duy T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn) án phí hình sự phúc thẩm.

- Người bị hại ông Trần Quốc L không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

108
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 361/2023/HS-PT

Số hiệu:361/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về