Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 342/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VINH, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 342/2021/HS-ST NGÀY 06/10/2021 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 06/10/2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh N, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 248/2021/HSST ngày 08/7/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 501 ngày 14/9/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa ngày 24/9/2021 đối với bị cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Quốc H - Tên gọi khác: không; Giới tính: Nam; Sinh ngày 15 tháng 01 năm 1981 tại thành phố V, tỉnh N; Nơi đăng ký HKTT: Khối 6, phường Đ, thành phố V, tỉnh N; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 12/12;

Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Xuân D; Con bà: Đào Thị H; Vợ, con: Chưa có; Tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 15/5/2019 bị Tòa án nhân dân TP V ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Chấp hành xong ngày 4/9/2020; Nhân thân: Bản án số 366/2007/HSST ngày 10/9/2007, bị Tòa án nhân dân TP V, tỉnh N tuyên phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Đã chấp hành xong tháng 8 năm 2008; Bản án số 261/2009/HSST ngày 01/6/2009, bị Tòa án nhân dân TP V, tỉnh N tuyên phạt 27 tháng tù về tội"Mua bán trái phép chất ma túy". Đã chấp hành xong ngày 04/02/2011; Bản án số 196/2014/HSST ngày 15/7/2014, bị Tòa án nhân dân TP V, tỉnh N tuyên phạt 25 tháng tù về tội"Tàng trữ trái phép chất ma túy". Đã chấp hành xong ngày 04/02/2016; Bản án số 66/2017/HSST ngày 20/2/2017, bị Tòa án nhân dân TP V, tỉnh N tuyên phạt 24 tháng tù về tội"Tàng trữ trái phép chất ma túy". Chấp hành xong ngày 30/8/2018; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/5/2021 đến nay; Có mặt tại phiên toà.

- Bị hại: Chị Trần Thị M - sinh năm 1977; trú tại: Chung cư CT1A thuộc khối 2, phường Q, Thành phố V, tỉnh N– vắng mặt.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Anh Lê Văn Q - sinh năm 1984; trú tại số nhà 276, đường Lê Viết Thuật, xóm M, xã H, Thành phố V. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 13 giờ 30 phút ngày 13/5/2021, Nguyễn Quốc H đến nhà chị Trần Thị M (thường gọi là Tú, sinh năm 1977; trú tại: Chung cư CT1A thuộc khối 2, phường Q, thành phố V, tỉnh N) để giúp chị M dán giấy chống nắng lên kính cửa sổ. Do hết keo dán nên H mượn chị M chiếc xe mô tô BKS 37K1 -xxxxx, nhãn hiệu Hoda SH moder để đi mua keo. Chị M đồng ý và giao xe mô tô trên cho H. H điều khiển xe mô tô trên đường Trần Phú, Phường L, Thành phố V đi mua keo dán thì gặp một người đàn ông tên D (H không biết lai lịch, địa chỉ cụ thể). Anh D gọi H lại và đòi số tiền 8.000.000đồng (tám triệu đồng) mà H đang còn nợ anh D trước đó. Do không có tiền trả, H xin khất để hôm sau trả nhưng anh D không đồng ý nên H nảy sinh ý định cấm cố chiếc xe mô tô đang mượn của chị M để lấy tiền trả nợ. H nói anh D đứng chờ một lúc nhưng anh D đòi đi cùng nên gửi xe rồi H chở anh D đi đến nhà anh Lê Văn Q (sinh năm 1984; trú tại số nhà 276, đường Lê Viết Thuật, xóm M, xã H, Thành phố V là bạn bè chơi thân quen lâu năm với H). Khi đi gần đến nhà anh Q, H nói anh D xuống xe và đứng chờ H một lát. H vào gặp anh Lê Văn Q nói gia đình có việc gấp cần vay số tiền 8.000.000 đồng (tám triệu đồng) và nói để lại chiếc mô tô BKS 37K1 -xxxxx, nhãn hiệu Hoda SH moder của H để làm tin. H hẹn anh Q năm ngày sau quay lại lấy xe và trả tiền cho anh Q. Anh Q cho H mượn tiền vì chỗ quen biết nên không ghi giấy tờ gì. Sau khi mượn được tiền của anh Q, H đã trả 8.000.000 đồng tiền nợ cho anh D và bắt taxi đi về nhà. Sau khi cho H mượn xe không thấy H mang xe về trả, chị M đã nhiều lần đến nhà tìm H để yêu cầu H trả xe nhưng H cố tình trốn tránh. Ngày 16/5/2021, chị Trần Thị M đến Công an Phường Đội Cung, TP. V gửi đơn tố giác Trần Quốc H. Khoảng 17h00 ngày 16/5/2021, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật và biết Cơ quan công an đang điều tra nên Nguyễn Quốc H đã đến Công an phường Đội Cung, TP V xin đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội của mình. Cùng ngày, anh Lê Văn Q đã tự nguyện giao nộp lại chiếc xe mô tô BKS 37K1- xxxxx cho Công an Phường Đội Cung, TP V.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 162 ngày 19/5/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự của UBND TP V kết luận: Chiếc xe mô tô BKS: 37K1 - xxxxx tại thời điểm tháng 5 năm 2021 có trị giá 39.000.000 đồng (Ba mươi chín triệu đồng).

Tại bản cáo trạng số 281/VKS-HS ngày 07/7/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố V đã truy tố Nguyễn Quốc H về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo điểm b khoản 1 điều 175 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà hôm nay đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố V giữ nguyên quan điểm như Cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc H từ 24 đến 27 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

phạt.

Bị cáo không tranh luận gì mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về nội dung: Tại phiên toà, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Bản cáo trạng đã truy tố là đúng. Xét lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và các chứng cứ khác đã được thẩm tra, tranh tụng tại phiên toà. Như vậy, có cơ sở để kết luận: Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 13/5/2021, sau khi mượn được xe mô tô nhãn hiệu Honda SH moder, màu trắng nâu, BKS 37K1- xxxxx trị giá 39.000.000 đồng của chị Trần Thị M, sinh năm 1977, trú tại phòng 607,Chung cư CT1A thuộc khối 2, phường Q, thành phố V, tỉnh N, do cần tiền để trả nợ nên Nguyễn Quốc H đã đem cầm cố xe mô tô nói trên cho anh Lê Văn Q (sinh năm 1984; trú tại số nhà 276, đường Lê Viết Thuật, xóm M, xã H, Thành phố V) để lấy 8.000.000 đồng.

Như vậy, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo điểm b khoản 1 điều 175 Bộ luật hình sự như bản cáo trạng truy tố là có căn cứ và đúng pháp luật.

Xét hành vi phạm tội của bị cáo là ít nghiêm trọng nhưng nguy hiểm cho xã hội, gây ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội, xâm phạm đến quyền sỡ hữu hợp pháp của người bị hại được pháp luật bảo vệ. Bị cáo là người có nhân thân xấu, nên cần xét xử nghiêm minh và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội.

Tuy nhiên, trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải, sau khi phạm tội đã ra đầu thú nên cần xem xét để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[3]. Về dân sự: Chiếc xe mô tô bị cáo chiếm đoạt hiện nay đã thu hồi trả lại cho bị hại là chị Trần Thị M, người bị hại không có yêu cầu gì thêm nên miễn xét. Hiện nay, anh Lê Văn Q yêu cầu bị cáo bồi thường 8.000.000 đồng số tiền bị cáo cầm cố xe. Xét thấy, yêu cầu của anh Q là phù hợp nên cần buộc bị cáo phải bồi thường số tiền này.

Đối với anh Lê Văn Q cho H vay tiền không lấy lãi suất. Anh Q không biết chiếc xe mô tô trên là H mượn của chị M nên Lê Văn Q không phạm tội.

Theo lời khai của Nguyễn Quốc H có người đàn ông tên D (không xác định được lai lịch, địa chỉ) đi cùng H để cầm cố chiếc xe mô tô trên nhưng không biết được quá trình H mang xe của chị M đi vay tiền nên không cơ sở để xử lý.

[4] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

 Tuyên bố bị cáo Nguyễn Quốc H phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Căn cứ vào điểm b khoản 1 điều 175; điểm s khoản 1, 2 điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt: Bị cáo Nguyễn Quốc H 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16/5/2021.

Về dân sự: Căn cứ điều 48 Bộ luật hình sự; điều 584, 585, 586, 589 Bộ luật dân sự buộc bị cáo Nguyễn Quốc H phải bồi thường cho anh Lê Văn Q 8.000.000 đồng (Tám triệu đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành cho đến khi thi hành xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Về án phí: Căn cứ vào điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án buộc bị cáo Nguyễn Quốc H phải chịu 200.000 đồng tiền án phí HSST và 400.000 đồng án phí DSST.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo được quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh N. Người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

46
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 342/2021/HS-ST

Số hiệu:342/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vinh - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/10/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về