Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 34/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÒN ĐẤT, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 34/2023/HS-ST NGÀY 31/07/2023 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 31 tháng 7 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang tiến hành mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 34/2023/TLST-HS ngày 12 tháng 6 năm 2023 đối với bị cáo:

Trịnh Vĩnh K, sinh năm 2000; Tên gọi khác: Không có; Giới tính: Nam. Nơi ĐKTT và chỗ ở hiện nay: Khóm 1, phường Láng Tròn, thị xã G, tỉnh B; Trình độ văn hóa: 3/12; Nghề nghiệp: Làm thuê; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không. Con ông Trịnh Quốc C – sinh năm: 1960 (đã chết) và bà Phạm Thị Thu H – sinh năm: 1962; gia đình có 03 anh chị em, lớn nhất sinh năm 1984, bị cáo là người con nhỏ nhất. Bị cáo chưa có vợ.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng cấp đi khỏi nơi cư trú từ ngày 05/04/2023 cho đến nay.

(Bị cáo có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa) Những người tham gia tố tụng khác:

1. Bị hại:

- Anh Võ Thanh H, sinh năm 1997. (vắng mặt) Địa chỉ: ấp Lình Huỳnh, xã Lình Huỳnh, huyện H, tỉnh K.

- Anh Nguyễn Văn N, sinh năm 1997 (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp Huỳnh Sơn, xã Lình Huỳnh, huyện H, tỉnh K.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Võ Thanh H1, Đoàn Văn Đ2, Nguyễn Văn N2 thường xuyên sử dụng trái phép chất ma túy. Vào khoảng 07 giờ ngày 03/8/2019 H1 gọi điện thoại rủ Đ2 đến nhà H1 để cùng đi mua ma túy đá về sử dụng. Sau đó Đ2 rủ Huỳnh Tấn T3 (T3 là bạn của Đ2) cùng đi, Đ2 điều khiển xe mô tô của Đ2 chở T3 đến nhà H1, sau đó H1 điều khiển xe mô tô biển số 68D1-570.xx của H1, Đ2 điều khiển xe mô tô của Đ2 chở T3 cùng chạy đến nhà Nguyễn Văn N2, mục đích hỏi mua ma túy đá để sử dụng. Khi đến nhà H1 hỏi “có biết chỗ nào bán ma túy không” N2 nói với H1 “ở ngoài thị trấn Hòn Đất mới có, có mua thì đi cùng tao”, H1 nói với N2 “còn thằng Đ2 và thằng T3 thì sao” (ý H1 hỏi N2 có cho Đ2 và T3 đi cùng không), N2 nói “cho nó đi cùng đến quán cà phê T3 Phát ngồi đợi”. Sau đó. H1 điều khiển xe mô tô 68D1-570.xx chở N2, Đ2 điều khiển xe mô tô chở T3 cùng chạy ra quán cà phê T3 Phát ở khu phố Đường Hòn, thị trấn Hòn Đất trên đường đi Đ2 điều khiển xe chở T3 chạy trước, H1 điều khiển xe chở N2 chạy phía sau.

Khi đi đến cầu Hòn thị trấn Hòn Đất, N2 nhìn thấy Trịnh Vĩnh K (K là người thường sử dụng chung ma túy với N2) đang mua đồ ăn sáng gần cầu Hòn, N2 kêu H1 chạy xe chậm lại, khi đi ngang qua K, N2 nói với K “chạy lại đây anh nhờ công chuyện xíu” (N2 biết K biết chỗ bán ma túy, mục đích nhờ K đi mua ma túy), K trả lời “em không có xe”, N2 nói “vậy đợi ở đây chút anh quay lại rước”, K trả lời “ừ”. Khi H1 điều khiển xe chở N2 đến quán cà phê T3 Phát, lúc này Đ2 và T3 đã đến quán cà phê T3 Phát trước, N2 nói với H1 “đưa xe cho tao để tao quay lại rước thằng đó cái”, H1 giao xe mô tô 68D1-570.xx cho N2 và đi vào quán với Đ2 và T3. N2 điều khiển xe mô tô 68D1-570.xx chạy đến cầu Hòn gặp K, N2 hỏi K “mày có biết chỗ nào bán ma túy không” K trả lời “có”, N2 lấy 1.800.000 đồng (một triệu tám trăm nghìn đồng) đưa K kêu K đi mua ma túy đá cho N2. Sau đó N2 điều khiển xe chở K đến quán cà phê T3 Phát, thấy H1 đang đứng phía trước quán, N2 xuống xe đi đến nói với H1 “cho thằng này mượn xe chạy lại đằng này một cái”, H1 hỏi N2 “đi đâu, xa không”, N2 trả lời “gần ở bệnh viện”. H1 trả lời “ừ đi đi”; N2 giao xe mô tô 68D1-570.xx cho K chạy đi mua ma túy rồi cùng với H1 vào quán uống nước với Đ2, T3 đợi K. Trịnh Vĩnh K sau khi được N2 đưa 1.800.000 đồng (một triệu tám trăm nghìn đồng) và xe mô tô 68D1 - 570.xx, K nảy sinh ý định chiếm đoạt tiền và chiếc xe mô tô 68D1 – 570.xx K không đi mua ma túy mà điều khiển mô tô 68D1-570.xx chạy về nhà ở khóm 1, phường Láng Tròn, thị xã Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu.

Ngày 04/8/2019 K điều khiển xe 68D1 - 570.xx chạy đến huyện Bình Chánh, T3 phố Hồ Chí Minh, đến ngày 05/8/2019 K bán xe mô tô 68D1 - 570.xx cho một người đàn ông không quen biết (không biết tên tuổi địa chỉ) ở khu công nghiệp xã Vĩnh Lộc, huyện Bình Chánh, T3 phố Hồ Chí Minh với giá 13.000.000 đồng (mười ba triệu đồng), sợ bị cơ quan Công an phát hiện bắt giữ K đã bỏ trốn. Số tiền bán xe và tiền N2 đưa đi mua ma túy K đã tiêu xài cá nhân hết. Sau đó K biết mình bị khởi tố về tội lạm dụng tính nhiệm chiếm đoạt tài sản đến ngày 05/04/2023 K đến Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Hòn Đất đầu thú và được điều tra tại ngoại đến nay.

Tại kết luận định giá tài sản số: 04/KL-ĐGTS ngày 28/02/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: Xe mô tô nhãn hiệu Suzuki, số loại: Raider, màu sơn: Đỏ đen, dung tích xy lanh: 147,3cm3; loại xe hai bánh vành đúc, phanh đĩa trước, sau, côn tay, phun xăng điện tử PGM(Fi); biển số: 68D1-570.xx có giá trị là 42.000.000 đồng.

Tại Bản cáo trạng số 37/CT-VKS-HĐ ngày 05/6/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòn Đất đã truy tố bị cáo Trịnh Vĩnh K về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 01 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015; sửa đổi, bổ sung năm 2017.

* Tại phiên tòa:

Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòn Đất thực hành quyền công tố, sau khi phân tích tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Trịnh Vĩnh K đủ yếu tố cấu T3 tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 175; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015; sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Trịnh Vĩnh K mức án từ 4 tháng đến 5 tháng tù.

Về vật chứng vụ án: Xe mô tô biển số 68D1 – 570.xx sau khi chiếm đoạt Trịnh Vĩnh K đem đến huyện Bình Chánh, TP Hồ Chí Minh bán cho một người không rõ tên tuổi địa chỉ cụ thể, quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra không thu giữ được nên không đề nghị HĐXX xử lý.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan, người tiến hành tố tụng:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòn Đất, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến và khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi bị truy tố của bị cáo:

Vào ngày 03/8/2019 tại khu phố Đường Hòn, thị trấn Hòn Đất, huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang, Trịnh Vĩnh K được Nguyễn Văn N2 đưa số tiền 1.800.000 đồng (một triệu tám trăm nghìn đồng) và giao xe mô tô biển số 68D1 - 570.xx (xe mô tô của Võ Thanh H1) để đi mua giùm ma túy. Sau khi nhận tiền và xe từ N2, K đã nảy sinh ý định chiếm đoạt nên điều khiển xe chạy về tỉnh Bạc Liêu. Đến ngày 04/8/2019 K điều khiển xe biển số 68D1 - 570.xx đến huyện Bình Chánh, TP.Hồ Chí Minh, sau đó bán cho một người không quen biết với giá 13.000.000 đồng. Tổng số tiền K chiếm đoạt là 43.800.000 đồng.

Như vậy, có đủ cơ sở để khẳng định hành vi của bị cáo Trịnh Vĩnh K đã đủ yếu tố cấu T3 tội: “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” được quy định tại điểm a khoản 01 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015; được sửa đổi bổ sung năm 2017 như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòn Đất truy tố là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội:

Khi phạm tội bị cáo là người đã T3 niên, có đầy đủ nhận thức về hành vi của mình. Bị cáo là người có sức khỏe tốt nhưng lại không siêng năng làm việc mà lại lợi dụng sự tin tưởng, tín nhiệm của người khác nhằm chiếm đoạt tài sản. Xét thấy, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội nên cần được xử lý nghiêm để đảm bảo tính răn đe, giáo dục, cải tạo. Bị cáo phải chịu mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của mình.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo sau khi phạm tội đã T3 khẩn khai báo; bị cáo đã khắc phục được phần lớn hậu quả; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên cần áp dụng điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 làm tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo.

Trên cơ sở tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HĐXX xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định, đồng thời cần có một mức hình phạt phù hợp nhằm răn đe, giáo dục, cải tạo bị cáo T3 công dân có ích cho xã hội.

[5] Về các vấn đề khác:

* Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

* Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Bị cáo đã thỏa thuận bồi thường cho Võ Thanh H1 số tiền 39.000.000 đồng (ba mươi chín triệu đồng), H1 đã nhận đủ tiền và không yêu cầu gì thêm. Riêng Nguyễn Văn N2 không có yêu cầu gì nên HĐXX không xem xét.

* Về xử lý vật chứng:

- Xe mô tô biển số 68D1 – 570.xx sau khi chiếm đoạt bị cáo đem đến huyện Bình Chánh, TP Hồ Chí Minh bán cho một người không rõ tên tuổi địa chỉ cụ thể, quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra không thu giữ được nên HĐXX không xử lý.

- Đối với số tiền 1.800.000 đồng Nguyễn Văn N2 đưa cho bị cáo đi mua ma túy về sử dụng: Do đây là số tiền được sử dụng vào mục đích trái pháp luật nên buộc bị cáo giao nộp lại số tiền này để sung vào công quỹ Nhà nước.

[6] Quan điểm truy tố của Viện kiểm sát:

Về tội danh, điều luật áp dụng và hình phạt đề nghị cho bị cáo phù hợp với nhận định của HĐXX nên chấp nhận.

[7] Về án phí:

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Trịnh Vĩnh K phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

2. Áp dụng: điểm a khoản 01 Điều 175; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38; khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015; được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt Bị cáo Trịnh Vĩnh K 04 (Bốn) tháng tù. Thời điểm chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng:

- Xe mô tô biển số 68D1 – 570.xx Cơ quan Cảnh sát điều tra không thu giữ được nên HĐXX không xử lý.

- Truy thu số tiền 1.800.000 đồng (Một triệu tám trăm nghìn đồng) đối với bị cáo Trịnh Vĩnh K để sung vào công quỹ Nhà nước.

4. Về án phí:

Áp dụng Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Trịnh Vĩnh K phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

5. Về quyền kháng cáo:

Báo cho bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

4
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 34/2023/HS-ST

Số hiệu:34/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hòn Đất - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về