Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 312/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NNG

BẢN ÁN 312/2022/HS-PT NGÀY 12/08/2022 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 8 năm 2022, tại điểm cầu trung tâm trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng và điểm cầu thành phần tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm trực tuyến công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 175/2022/TLPT-HS ngày 11 tháng 5 năm 2022 đối với bị cáo Phan Thị P về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 07/2022/HSST ngày 04/4/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum.

* Bị cáo có kháng cáo:

Phan Thị P; sinh ngày: 20/02/1983 tại tỉnh Quảng Nam. Trú tại: số nhà 126 đường D, phường TC, thành phố K, tỉnh Kon Tum; Nghề nghiệp: Giám đốc công ty TNHH P1; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phan Tấn T, sinh 1957 và bà Võ Thị H, sinh 1960; Có chồng là Trịnh Văn V1 (Đã ly hôn) và có 04 người con, người con lớn sinh năm 2006, người con nhỏ sinh năm 2021; Gia đình bị cáo có bốn anh, chị, em, bị cáo là con thứ hai trong gia đình; Tiền án, tiền sự: không Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Nguyễn Hà L và Luật sư Phạm Lệ Q - Văn phòng luật sư H2, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội. Có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1971. Trú tại: số nhà 163 đường T1, phường D, thành phố K, tỉnh Kon Tum. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

+ Bà Nguyễn Thị Thuý V, sinh năm 1982. Trú tại: Thôn K1, phường TC, thành phố K, tỉnh Kon Tum. vắng mặt

+ Ông Trịnh Văn V1, sinh năm 1982. Trú tại: số nhà 126 đường D, phường TC, thành phố K, tỉnh Kon Tum. Vắng mặt

+ Ông Võ Minh Th, sinh năm 1964. Trú tại: số nhà 163 đường T1, phường D, thành phố K, tỉnh Kon Tum. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Công ty trách nhiệm hữu hạn P1 được thành lập, đăng ký kinh doanh lần đầu ngày 06/3/2014 theo loại hình Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, có mã số doanh nghiệp là 6101174677, có 02 thành viên góp vốn là:

- Phan Thị P (địa chỉ: Tổ 5, phường TC, thành phố K, tỉnh Kon Tum) góp vốn 1.400.000.000 đồng; Phan Thị P là người đại diện theo pháp luật của Công ty với chức danh: Chủ tịch Hội đồng thành viên kiêm Giám đốc.

- Nguyễn Thị Thuý V (địa chỉ: Thôn Kon Tu 2, phường TC, thành phố K, tỉnh Kon Tum) góp vốn 600.000.000 đồng.

Trong thời gian điều hành Công ty trách nhiệm hữu hạn P1, Phan Thị P đã thực hiện hành vi đối với bà Nguyễn Thị M (sinh năm 1971, trú tại số nhà 163 đường T1, phường D, thành phố K, tỉnh Kon Tum) cụ thể như sau:

* Đối với khoản tiền nợ mua hàng từ năm 2014 đến ngày 04/8/2017: Từ khoảng thời gian năm 2014 đến ngày 04/8/2017, Phan Thị P mua hàng hóa (sắt, thép) của bà Nguyễn Thị M và nợ của bà Nguyễn Thị M số tiền mua hàng là 1.200.000.000 đồng. Trong thời gian nợ tiền mua hàng của bà Nguyễn Thị M nhưng chưa trả, vào ngày 19/7/2017, Phan Thị P nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 26 + 27, tờ bản đồ số 43, đường P2, tổ 3, phường N1, thành phố K, tỉnh Kon Tum của bà Đậu Thúy H2 (địa chỉ: tổ 3, phường N1, thành phố K, tỉnh Kon Tum), đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BX 296463. Đến ngày 26/7/2017, Phan Thị P thế chấp quyền sử dụng diện tích đất mới nhận chuyển nhượng này tại Ngân hàng thương mại cổ phần phát triển thành phố Hồ Chí Minh (viết tắt là HD Bank) chi nhánh Kon Tum để Công ty trách nhiệm hữu hạn P1 vay 1.200.000.000 đồng, với lý do vay là để bổ sung vốn kinh doanh các loại vật liệu, thiết bị lắp đặt khác trong xây dựng; thời hạn vay từ 26/7/2017 đến 26/7/2018. Cũng trong khoảng thời gian này, bà Nguyễn Thị M đòi Phan Thị P số tiền 1.200.000.000 đồng tiền mua hàng Công ty THHH P1 nợ trước đây. Phan Thị P đã dẫn bà Nguyễn Thị M cùng chồng bà M là ông Võ Minh Th đến xem lô đất này, đồng thời đưa bản photocopy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng bà M, ông Th xem và hứa sẽ làm thủ tục sang nhượng lô đất này cho bà Nguyễn Thị M để cấn trừ số tiền nợ 1.200.000.000 đồng; bà Nguyễn Thị M đồng ý cách trả nợ tiền hàng bằng quyền sử dụng đất như Phan Thị P đề nghị.

Đến tháng 2 năm 2018, bà Nguyễn Thị M nhắc Phan Thị P về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với lô đất nêu trên để trả nợ tiền hàng thì Phan Thị P nói là quyền sử dụng đất còn đang thế chấp tại Ngân hàng HD Bank chi nhánh Kon Tum, khi nào hết hạn (tức đến ngày 26/7/2018) sẽ rút Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ra rồi làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất này cho bà Nguyễn Thị M. Bà Nguyễn Thị M và Phan Thị P lập 1 Hợp đồng sang nhượng đất, còn để trống ngày có ghi tháng 2/2018 nhưng nội dung hợp đồng không ghi địa chỉ, đặc điểm, diện tích, vị trí của thửa đất mà Phan Thị P hứa sang nhượng cho bà Nguyễn Thị M đưa cho bà M giữ.

Khoảng đầu tháng 6 năm 2018, gần thời điểm Công ty trách nhiệm hữu hạn P1 phải trả nợ, bà Nguyễn Thị M tiếp tục yêu cầu Phan Thị P về việc chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất để trả nợ 1.200.000.000 đồng tiền hàng như đã thoả thuận miệng với nhau. Lúc này Phan Thị P viết 01 giấy đưa cho bà Nguyễn Thị M sẽ trả nợ bằng quyền sử dụng đất như đã thoả thuận miệng là khi hết thời hạn vay Ngân hàng, tức là ngày 26/7/2018 sẽ xóa thế chấp lấy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà Nguyễn Thị M khấu trừ khoản nợ 1.200.000.000 đồng tiền hàng. Cụ thể giấy Phan Thị P viết có nội dung như sau:

“Tôi tên: Phan Thị P, đại diện Công ty TNHH P1, xác nhận cn trừ số tiền nợ 1.200.000.000 đồng (một tỷ hai trăm triệu đồng) vào lô đất đường P2, phường Nỉ, thành phố K. Bìa mang sổ BX296463 - tên sở hữu Phan Thị P - hồ sơ 002161. CN249 ngày 19/7/2017. Hiện tại đang mượn vay tại NH HD Bank. Hạn cuối tháng 12/2018 sang bìa qua cho chị Nguyễn Thị M. Kon Tum ngày 8 tháng 6 năm 2018” Hợp đồng vay tiền của Công ty trách nhiệm hữu hạn P1 có thể chấp thửa đất của Phan Thị P tại Ngân hàng HD Bank chi nhánh tỉnh Kon Tum đến ngày 26/7/2018 là đến thời hạn trả nợ. Theo trình bày của Phan Thị P thì cũng ngày này Phan Thị P đã vay mượn 1.200.000.000 đồng của bà Nguyễn Thị Mai Tr (địa chỉ: 417 P2, thành phố K, tỉnh Kon Tum) để trả nợ vay Ngân hàng HD Bank chi nhánh Kon Tum, xoá thế chấp quyền sử dụng đất tại Ngân hàng này và rút Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BX 296463 ra khỏi Ngân hàng HD Bank chi nhánh Kon Tum. Ngày hôm sau, tức ngày 27/7/2018, Phan Thị P dùng Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BX 296463 vừa rút ra khỏi Ngân hàng HD Bank chi nhánh Kon Tum thế chấp cho Ngân hàng ACB chi nhánh tỉnh Kon Tum để Công ty trách nhiệm hữu hạn P1 vay 1.500.000.000 đồng, thời hạn vay là 12 tháng (6 tháng đáo hạn một lần). Việc trả nợ Ngân hàng HD Bank chi nhánh tỉnh Kon Tum lấy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BX 296463 ra rồi lại thế chấp vay của Ngân hàng ACB chi nhánh tỉnh Kon Tum với số tiền vay lớn hơn, Phan Thị P không nói cho bà Nguyễn Thị M biết. Sau khi vay của Ngân hàng ACB chi nhánh tỉnh Kon Tum được 1.500.000.000 đồng, theo trình bày của Phan Thị P thì p đã dùng tiền Công ty trách nhiệm hữu hạn P1 vay được trả nợ cho bà Nguyễn Thị Mai Tr 1.200.000.000 đồng, còn 300.000.000 đồng dùng vào việc trả nợ cá nhân cho bà Lê Thị Hiệp.

Đến tháng 9 năm 2019, khi đã quá thời hạn phải trả nợ, Ngân hàng ACB chi nhánh tỉnh Kon Tum đã làm thủ tục xử lý nợ vay của Công ty trách nhiệm hữu hạn P1 thì Phan Thị P đã ủy quyền cho Ngân hàng ACB chi nhánh tỉnh Kon Tum sang nhượng lô đất của P đã thế chấp, xử lý tài sản đảm bảo theo hợp đồng vay. Ngân hàng ACB chi nhánh tỉnh Kon Tum đã bán lô đất này để thu hồi khoản nợ đã vay của Công ty trách nhiệm hữu hạn P1 tại Ngân hàng ACB chi nhánh tỉnh Kon Tum.

* Đối với khoản tiền góp vốn 2.000.000.000 đồng bà Nguyễn Thị M đầu tư vào Công ty trách nhiệm hữu hạn P1 để kinh doanh Nhà máy tôn ngã ba T2: Vào ngày 11/4/2017, Công ty trách nhiệm hữu hạn P1 xin được giấy phép xây dựng và đã xây dựng nhà máy cán tôn ngã ba T2 trên diện tích đất thuộc thửa đất số 54 + 55, tờ bản đồ số 45 tại tổ 4, phường N1, thành phố K, tỉnh Kon Tum do Phan Thị P thuê của bà Trần Thị C1 (địa chỉ 133 đường H2, phường QQ1, thành phố K, tỉnh Kon Tum) từ ngày 27/3/2017. Sau khi khai trương, đưa Nhà máy cán tôn ngã ba T2 đi vào hoạt động tháng 5 năm 2017, Phan Thị P đã mời bà Nguyễn Thị M góp vốn vào Công ty trách nhiệm hữu hạn P1 để cùng kinh doanh nhà máy cán tôn tại ngã ba T2, đưa bà M vào thành viên công ty và được bà M đồng ý. Thời điểm này, bà Nguyễn Thị M và Phan Thị P chưa thoả thuận số vốn bà M góp là bao nhiêu mà Phan Thị P chỉ nói bà M có bao nhiêu thì đầu tư vào bấy nhiêu. Bà Nguyễn Thị M đã chuyển khoản số tiền góp vốn vào các tài khoản do Phan Thị P cung cấp cho bà M biết, cụ thể:

+ Ngày 23/6/2017 chuyển khoản 250.000.000 đồng vào tài khoản 5109205021143 (Ngân hàng Agribank Kon Tum) của anh Trịnh Văn V1.

+ Ngày 05/7/2017 chuyển khoản 3 lần cụ thể: chuyển 350.000.000 đồng vào tài khoản của Công ty trách nhiệm hữu hạn P1 số 040029763773, thuộc Ngân hàng Sacombank Kon Tum; chuyển 100.000.000 đồng vào tài khoản của cá nhân Phan Thị P số 040029761967, thuộc Ngân hàng Sacombank Kon Tum; chuyển 100.000. 000 đồng cũng vào tài khoản của cá nhân Phan Thị P số 040029761967, thuộc Ngân hàng Sacombank Kon Tum.

+ Ngày 14/7/2017 chuyển khoản 3 lần cụ thể: chuyển khoản 50.000.000 vào tài khoản cá nhân Phan Thị P là 62510000293743, thuộc Ngân hàng BIDV Kon Tum; chuyển 168.000.000 đồng vào tài khoản của Công ty trách nhiệm hữu hạn P1 số 040029763773, thuộc Ngân hàng Sacombank Kon Tum; chuyển 30.000.000 đồng vào tài khoản của cá nhân Phan Thị P số 040029761967, thuộc Ngân hàng Sacombank Kon Tum.

+ Ngày 8/8/2017 chuyển khoản 2 lần cụ thể: chuyển 60.000.000 đồng vào tài khoản của Công ty trách nhiệm hữu hạn P1 số 040029763773, thuộc Ngân hàng Sacombank Kon Tum; Chuyển 40.000.000 đồng vào tài khoản của Công ty trách nhiệm hữu hạn P1 số 040029763773, thuộc Ngân hàng Sacombank Kon Tum.

+ Ngày 31/8/2017 chuyển khoản 2 lần cụ thể: chuyển 100.000.000 đồng vào tài khoản của cá nhân Nguyễn Thị Thuý V số 040060214206, thuộc Ngân hàng Sacombank Kon Tum; Chuyển 49.400.000 đồng vào tài khoản của cá nhân Nguyễn Thị Thuý V số 040060214206, thuộc Ngân hàng Sacombank Kon Tum;

+ Ngày 26/12/2017 chuyển 50.000.000 đồng vào tài khoản của cá nhân Phan Thị P số 040029761967, thuộc Ngân hàng Sacombank Kon Tum.

+ Ngày 29/12/2017 chuyển 100.000.000 đồng vào tài khoản của cá nhân Phan Thị P số 040029761967, thuộc Ngân hàng Sacombank Kon Tum.

Ngoài số tiền góp vốn chuyển khoản là 1.447.400.000 đồng nêu trên thì Phan Thị P và bà Nguyễn Thị M đã thống nhất các khoản tiền góp vốn của bà Nguyễn Thị M gồm: Khoản tiền Phan Thị P nợ tiền mua hàng của bà M năm 2017 là 200.000.000 đồng; Tiền mặt 174.600.000 đồng Phan Thị P nhận của chị Minh làm nhiều lần; Tiền lãi chia lợi nhuận do bà M góp vốn trong năm 2017 là, 178.000. 000 đồng. Thời điểm bà M góp vốn xong vào ngày 31/12/2017 và tổng số tiền bà M góp vốn là 2.000.000.000 đồng (hai tỷ đồng) bao gồm các khoản tiền đã nêu trên. Phan Thị P thực tế đã sử dụng 2.000.000.000 đồng (hai tỷ đồng) góp vốn của bà Nguyễn Thị M nhưng không đưa số tiền góp vốn của bà M vào thành vốn lưu động của Công ty trách nhiệm hữu hạn P1 để được theo dõi trong sổ sách tài chính của Công ty. Đến ngày 01/07/2018 (đã bị sửa bằng bút bi là ngày 05/07/2017) Phan Thị P và bà Nguyễn Thị M đã thống nhất ký “Hợp đồng góp vốn” để hiện thực hoá thoả thuận bằng văn bản làm cơ sở thực hiện, ràng buộc lẫn nhau, nội dung “Hợp đồng góp vốn” trích, tóm lược như sau:

Căn cứ vào chức năng và nhu cầu của hai bên:

Bên góp vốn (Bên A): ông Võ Minh Th (chồng) + bà Nguyễn Thị M (vợ);

Bên nhận góp vốn (Bên B): Công ty TNHH P1 tại ngã ba T2; Tên và người đại diện là: Phan Thị P (chức vụ: Giám đốc Công ty) + ông Trịnh Văn V1 (chồng bà Phan Thị P).

Tài sản và giá trị góp vốn: Tiền mặt thuộc sở hữu của bên A là Nguyễn Thị M góp là 2.000.000.000 đồng;

Mục đích góp vốn: Đầu tư kinh doanh nhà máy tôn của Công ty P1.

Thời hạn góp vốn: Bên B có trách nhiệm hoàn trả tài sản góp vốn lại cho bên A hoặc theo thoả thuận góp vốn với bên A.

Hình thức chia lãi thỏa thuận: Bên A nhận 2,1% trên tháng trên tổng số tiền góp vốn tức là mỗi tháng bên A nhận 2,1% từ bên B. (Nguyễn Thị M nhận số tiền từ bà Phan Thị P vào ngày 10 hàng tháng). Bên A sẽ nhận số tiền chia lãi nói trên vào ngày 10 hàng tháng.

“Hợp đồng góp vốn” trên có nêu các bên ký hợp đồng trước mặt có Công chứng viên nhưng thực tế không có xác nhận của Công chứng viên mà chỉ có bà Nguyễn Thị M ký cho bên A; Phan Thị P ký cho bên B với tư cách là Giám đốc và có đóng dấu của Công ty trách nhiệm hữu hạn P1; các ông Võ Minh Th, Trịnh Văn V1 không biết về hợp đồng, không có mặt và không ký vào hợp đồng này.

Ngày 30/01/2019, Công ty TNHH P1 đăng ký thay đổi lần 2, Phan Thị P vẫn giữ nguyên thành viên góp vốn, không bổ sung đưa bà Nguyễn Thị M vào làm thành viên góp vốn mà chỉ tăng vốn điều lệ lên 9.000.000.000 đồng, trong đó p góp 6.300.000.000 đồng, còn Nguyễn Thị Thuý V góp 2.700.000.000 đồng và Phan Thị P vẫn là Chủ tịch Hội đồng thành viên kiêm Giám đốc.

Biết rõ quá trình kinh doanh tại nhà máy cán tôn ở ngã 3 T2 của Công ty trách nhiệm hữu hạn P1 có lợi nhuận, không thua lỗ nhưng vì thấy Phan Thị P không trả lãi chia lợi nhuận đầy đủ nên năm 2019 bà Nguyễn Thị M đã yêu cầu Phan Thị P phải trả lại tiền góp vốn 2.000.000 000 đồng.

Đến ngày 16/4/2019, Phan Thị P tiếp tục đăng ký thay đổi lần 3 cho Công ty trách nhiệm hữu hạn P1 thành loại hình Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên; vốn điều lệ vẫn giữ 9.000.000.000 đồng; Chủ sở hữu duy nhất và là người đại diện theo pháp luật của Công ty trách nhiệm hữu hạn P1 là Phan Thị P với chức danh Chủ tịch Công ty kiêm Giám đốc.

Ngày 30/4/2019, Phan Thị P ký văn bản “xác nhận tổng hợp công nợ và lãi của hai hợp đồng” thể hiện: bà Nguyễn Thị M góp vốn cho Công ty trách nhiệm hữu hạn P1 là 2.000.000.000 đồng; tiền lãi tháng 1, tháng 2, tháng 3, tháng 4: 42.000.000 x 4 = 168.000.000 đồng; Tổng số tiền góp vốn và lãi: 2.168.000.000 đồng. Văn bản xác nhận tổng hợp còn ghi rõ: bà Nguyễn Thị M yêu cầu Phan Thị P trả đúng số tiền công nợ và lãi cho bà Nguyễn Thị M đúng thời hạn.

Sau khi trở thành chủ duy nhất của Công ty trách nhiệm hữu hạn P1 được khoảng 01 tháng, đến ngày 17/5/2019, Phan Thị P đã sang nhượng Nhà máy cán tôn ngã ba T2 cho Công ty trách nhiệm hữu hạn xây dựng B do ông Nguyễn Đình D1 - chức vụ: Giám đốc làm đại diện theo pháp luật, ông Nguyễn Đình D1 cũng là chồng của bà Nguyễn Thị Thúy V thông qua các Hợp đồng sang nhượng máy móc, nhà xưởng, Hợp đồng mua máy móc; Tổng trị giá sang nhượng thật là 2.100.000.000 đồng nhưng ngày 30/5/2019 Công ty trách nhiệm hữu hạn P1 xuất hóa đơn giá trị gia tăng cho công ty trách nhiệm hữu hạn xây dựng B chỉ có giá trị là 631.000.078 đồng.

Mặc dù bán Nhà máy cán tôn ngã ba T2 được 2.100.000.000 đồng và Công ty trách nhiệm hữu hạn P1 do chính Phan Thị P là chủ sở hữu duy nhất đã tăng vốn điều lệ lên tới 9.000.000.000 đồng nhưng Phan Thị P vẫn không hoàn trả tiền góp vốn của bà Nguyễn Thị M dù bà Nguyễn Thị M nhiều lần đòi trong thời gian dài.

Theo trình bày của Phan Thị P thì số tiền bán Nhà máy cán tôn ở ngã ba T2, Phan Thị P đã dùng thanh toán các khoản nợ cá nhân của Phan Thị P là trả cho bà Tạ Thị Diễm Thúy 1.300.000.000đ, trả phần góp vốn của Nguyễn Thị Thuý V vào Công ty trách nhiệm hữu hạn P1 trước đây là 600.000.000đ và trả các khoản nợ mà Nguyễn Thị Thuý V đã vay phục vụ cho việc kinh doanh của Công ty trách nhiệm hữu hạn P1 là 200.000.000đ.

Sau khi Phan Thị P bán xong nhà máy cán tôn ở ngã ba T2 mà không cho bà Nguyễn Thị M biết, Phan Thị P vào ngày 31/5/2019 tiếp tục lại ký văn bản “xác nhận tổng hợp công nợ và lãi của hai hợp đồng” thể hiện: bà Nguyễn Thị M góp vốn cho Công ty trách nhiệm hữu hạn P1 là 2.000.000.000 đồng; tiền lãi tháng 1, tháng 2, tháng 3, tháng 4, tháng 5: 42.000.000 x 5 = 210.000.000 đồng; Tổng số tiền góp vốn và lãi: 2.210.000.000 đồng. Văn bản xác nhận tổng hợp còn ghi rõ: bà Nguyễn Thị M yêu cầu Phan Thị P trả đúng số tiền công nợ và lãi cho bà Nguyễn Thị M đúng thời hạn; lần xác nhận nợ này Phan Thị P cũng không hẹn vào thời điểm nào Phan Thị P sẽ trả tiền góp vốn cho bà Nguyễn Thị M.

Sau khi biết Phan Thị P đã trở thành chủ sở hữu duy nhất Công ty trách nhiệm hữu hạn P1 và Phan Thị P đã bán nhà máy cán tôn ở ngã ba T2 nhưng không trả tiền góp vốn 2.000.000.000 đồng cho bà M; Không chuyển quyền sử dụng đất cho bà M. Ngày 31/5/2019, bà Nguyễn Thị M tố giác đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Kon Tum về việc Phan Thị P đã có hành vi chiếm đoạt số tiền góp vốn 2.000.000.000 đồng vào Công ty trách nhiệm hữu hạn P1 và 1.200.000.000 đồng tiền mua hàng từ 2014 đến 2017 của bà Nguyễn Thị M.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 07/2022/HSST ngày 04/4/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum đã quyết định:

Căn cứ khoản 4 Điều 175; điểm n khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015;

Tuyên bố bị cáo Phan Thị P phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Phan Thị P 16 (Mười sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt thi hành án.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về phần xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xử sơ thẩm ngày 12 tháng 4 năm 2022, bị cáo Phan Thị P kháng cáo kêu oan.

Ngày 20 tháng 4 năm 2022, người bị hại là bà Nguyễn Thị M kháng cáo đề nghị tăng nặng hình phạt đối với bị cáo.

Tại phiên tòa bị cáo và luật sư bào chữa cho bị cáo đều đề nghị hủy án sơ thẩm.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nng có quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau:

Về nội dung đơn kháng cáo của bị cáo Phan Thị P và người bị hại là bà Nguyễn Thị M: Bản án hình sự sơ thẩm số: 07/2022/HSST ngày 04/4/2022 của TAND tỉnh Kon Tum đã xét xử bị cáo Phan Thị P về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo khoản 4 Điều 175 BLHS và xử phạt bị cáo 16 (mười sáu) năm tù cho là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 BLTTHS không chấp nhận kháng cáo của của bị cáo Phan Thị P và người bị hại là bà Nguyễn Thị M giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

Căn cứ các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên toà phúc thẩm; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo và luật sư.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Phan Thị P thừa nhận: Đối với số tiền nợ mua hàng của người bị hại Nguyễn Thị M từ năm 2014 đến ngày 04/8/2017 là 1.200.000.000 đồng, bị cáo đã có hành vi đưa 01 bản photocopy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BX 296463 đối với thửa đất số 26 + 27, tờ bản đồ số 43, đường P2, tổ 3, phường N1, thành phố K, tỉnh Kon Tum để cam kết chuyển nhượng các thửa đất nêu trên cho bà p nhằm cấn trừ khoản nợ. Tuy nhiên, sau đó bị cáo thế chấp các thửa đất cho Ngân hàng ACB chi nhánh tỉnh Kon Tum để Công ty trách nhiệm hữu hạn P1 vay 1.500.000.000 đồng dùng vào việc trả nợ cho bà Nguyễn Thị Mai Tr số tiền 1.200.000.000 đồng và bà Lê Thị Hiệp số tiền 300.000. 000 đồng. Khi đã quá thời hạn phải trả nợ, Phan Thị P đã ủy quyền Ngân hàng ACB chi nhánh tỉnh Kon Tum xử lý tài sản đảm bảo để Ngân hàng thu hồi khoản nợ đã vay của Công ty trách nhiệm hữu hạn P1.

Đối với số tiền bà Nguyễn Thị M góp vốn đầu tư vào Công ty trách nhiệm hữu hạn P1 để kinh doanh Nhà máy tôn ngã ba T2 là 2.000.000.000 đồng. Bị cáo đã có hành vi không đăng ký biến động thành viên Công ty cho bà Phan Thị P và sau đó chuyển nhượng cho Công ty trách nhiệm hữu hạn xây dựng B với tổng trị giá sang nhượng thật là 2.100.000.000 đồng. Bị cáo đã dùng số tiền nêu trên thanh toán các khoản nợ cho bà Tạ Thị Diễm Thúy 1.300.000.000đ, trả phần góp vốn của Nguyễn Thị Thuý V vào Công ty trách nhiệm hữu hạn P1 trước đây là 600.000.000đ và trả các khoản nợ mà Nguyễn Thị Thuý V đã vay phục vụ cho việc kinh doanh của Công ty trách nhiệm hữu hạn P1 là 200.000.000đ.

Như vậy, bị cáo nhận tài sản của người khác thông qua hợp đồng nợ, góp vốn hứa trả lại, chuyển giao tài sản nhưng sau đó bị cáo dùng nhiều thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người bị hại với tổng số tiền là 3.200.000.000 đồng. Do đó, Bản án hình sự sơ thẩm số: 07/2022/HSST ngày 04/4/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum đã xét xử bị cáo Phan Thị P về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo khoản 4 Điều 175 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người đúng tội và đúng pháp luật.

[2]. Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo và kháng cáo tăng hình phạt của người bị hại thì thấy: Đây là vụ án có tính chất đặc biệt nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ sở hữu tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ, gây hoang mang trong dư luận. Trường hợp phạm tội của bị cáo có tình tiết tăng nặng “Phạm tội 02 lần trở lên” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Do đó đối với bị cáo phải xử lý nghiêm, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian dài mới đảm bảo cải tạo giáo dục cũng như răn đe và phòng ngừa chung. Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, xem xét áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ và tuyên xử bị cáo 16 (mười sáu) năm tù là phù hợp, không oan, không có căn cứ để hủy án sơ thẩm như đề nghị của luật sư. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không có tình tiết gì mới nên HĐXX không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo cũng như kháng cáo tăng nặng hình phạt của người bị hại.

[3] Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

[4] Bị cáo và người bị hại phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phan Thị P và kháng cáo của người bị hại Nguyễn Thị M, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Tuyên bố bị cáo Phan Thị P phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

- Áp dụng: Khoản 4 Điều 175; Điểm n khoản 1 Điều 51; Điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Phan Thị P 16 (Mười sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt giam thi hành án.

2. Án phí hình sự phúc thẩm: Buộc bị cáo Phan Thị P phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự phúc thẩm. Buộc người bị hại Nguyễn Thị M phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 312/2022/HS-PT

Số hiệu:312/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về