Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 31/2022/HS-PT  

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 31/2022/HS-PT NGÀY 19/01/2022 VỀ TỘI LM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang, Toà án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý 554/2021/TLPT-HS ngày 30 tháng 06 năm 2021 đối với bị cáo Trần Quốc L phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” do có kháng cáo của bị hại đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 14/2021/HSST ngày 13 tháng 05 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang.

Bị cáo bị kháng cáo:

Trần Quốc L, sinh ngày 03/4/1991 tại tỉnh Tuyên Quang; Nơi cư trú: Tổ 5, phường T, thành phố TQ, tỉnh Tuyên Quang, Nghề nghiệp: Nhân viên Công ty TNHH VINFAST chi nhánh Tuyên Quang; trình độ văn hoá (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch Việt Nam; con ông Trần Quốc Đ và bà Nguyễn Thị H; vợ, con: chưa có. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/7/2020, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Hà Minh P - Văn phòng luật sư Vĩnh Phúc, Đoàn Luật sư tỉnh Tuyên Quang. Có mặt.

* Bị hại có kháng cáo:

- Chị Lê Thị Thu H, sinh năm 1984; nơi cư trú: P1104, toà A13, khu đô thị  SĐ, quận LB, thành phố Hà Nội. Vắng mặt. Có đơn đề nghị rút kháng cáo.

- Anh Nguyễn Hoàng A, sinh năm 1990; nơi ĐKHKTT: Số 4B1 Y, phường PĐH, quận HBT, thành phố Hà Nội. Nơi ở hiện nay: Park 7 - 0502, P, Khu đô thị TC, phường MĐ, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong thời gian từ tháng 5 đến tháng 7/2020, Trần Quốc L trú tại tổ 5, phường T, thành phố TQ, tỉnh Tuyên Quang là nhân viên tư vấn bán hàng tại Showroom ô tô Vinfast chi nhánh Tuyên Quang thuộc Công ty TNHH kinh doanh thương mại và dịch vụ Vinfast (địa chỉ: số 260 đường QT, phường PT, thành phố TQ) đã lợi dụng nhiệm vụ được giao tư vấn bán hàng xe ô tô Vinfast và lòng tin của các khách hàng, L đã có hành vi nhận tiền mua xe ô tô của 04 khách hàng với tổng số tiền 1.047.613.000 đồng, 01 thẻ Voucher trị giá 350.000.000 đồng và chiếm đoạt toàn bộ số tiền trên để sử dụng chi tiêu cá nhân, cụ thể như sau:

Lần 1. Cuối tháng 5/2020, thông qua ông Nguyễn Xuân H là cán bộ quản lý kinh doanh ô tô Vinfast miền Bắc giới thiệu, L đã tư vấn cho chị Lê Thị Thu H, trú tại P1104, tòa A13, khu đô thị SĐ, quận LB, thành phố Hà Nội mua xe ô tô Vinfast Fadil bản tiêu chuẩn với giá 362.207.700 đồng, chị H cung cấp thông tin cho L và L đã nhờ chị Nguyễn Thị Trần Tr, là nhân viên hỗ trợ bán hàng tại Showroom ô tô Vinfast Tuyên Quang làm hộ hợp đồng mua bán xe ô tô. Ngày 25/5/2020, L đưa hợp đồng cho chị H ký, chị H nhờ L làm hộ thủ tục đăng ký xe để nhận xe trong tháng 8/2020 (chưa ấn định ngày cụ thể) và đưa cho L 01 thẻ Voucher Vinfast trị giá 350.000.000 đồng cùng số tiền 12.208.000 đồng để thanh toán tiền mua xe (theo quy định Công ty Vinfast thì chỉ kế toán của Công ty mới được thu các khoản tiền của khách hàng). L sử dụng phiếu thu của Công ty, do anh Nguyễn Quốc K, Giám đốc Công ty TNHH kinh doanh thương mại và dịch vụ Vinfast Tuyên Quang ký và đóng dấu in trước lý do nộp tiền “Nộp tiền đặt cọc xe Fadil, số tiền 20.000.000 đồng, L tự ý sửa thành “Thanh toán tiền xe Fadil, số tiền 12.208.000 đồng kèm theo 01 thẻ Voucher 350.000.000 đồng” đề ngày 25/5/2020 sau đó đưa chị H giữ.

Đến giữa tháng 6/2020, chị H thông báo cho L muốn thay đổi hợp đồng mua xe từ bản tiêu chuẩn lên bản nâng cao, L đồng ý và làm lại hợp đồng sau đó cho chị H ký. Ngày 04/7/2020, chị H nộp thêm 29.769.000 đồng (tiền chênh lệch do đổi xe) vào tài khoản của Công ty TNHH kinh doanh thương mại và dịch vụ Vinfast chi nhánh Tuyên Quang. Sau đó, L gọi điện thông báo cho chị H biết Công ty sẽ tăng giá xe từ ngày 15/7/2020, nếu làm thủ tục xuất xe trước thời điểm trên thì mới được hưởng giá cũ, chị H đã chuyển vào tài khoản 19035443906011 của L mở tại Ngân hàng Techcombank số tiền 52.615.000 đồng để làm thủ tục đăng  ký xe ô tô.

Nhận được tiền và thẻ Voucher của chị H, L không làm thủ tục thanh toán mua xe cho Công ty mà nảy sinh ý định chiếm đoạt; ngày 26/5/2020, L đã bán thẻ Voucher của chị H cho anh Nguyễn Bá D, là nhân viên bán hàng của Showroom ô tô Vinfast Đại Việt, địa chỉ số 01 Nguyễn Văn Linh, phường Gia Thụy, quận LB, thành phố Hà Nội được 310.000.000 đồng. Toàn bộ số tiền nhận của chị H và tiền bán thẻ Voucher là 374.823.000 đồng, L sử dụng chi tiêu cá nhân hết và không có khả năng trả lại.

Đối với số tiền 29.769.000 đồng chị H chuyển vào tài khoản của Công ty Vinfast, sau khi biết việc L chiếm đoạt tiền của khách hàng, ngày 09/01/2021 Công ty đã trả lại cho chị H.

Lần 2. Cuối tháng 6/2020, anh Nguyễn Hoàng A, trú tại ngõ Y, phường PĐH, quận HBT, Hà Nội nhờ L tư vấn mua xe ô tô Vinfast Lux A2.0 bản nâng cao với giá 1.070.960.000 đồng, hình thức trả góp trước 30% giá trị xe, anh Hoàng A thỏa thuận mua xe và nhờ L làm thủ tục đăng ký, lắp thêm phụ kiện, thời hạn giao xe là 5 ngày kể từ ngày ký hợp đồng mua bán. Ngày 26/6/2020, L nhờ chị Nguyễn Thị Trần Tr làm hợp đồng mua bán xe rồi đưa cho anh Hoàng A ký và anh Hoàng A đã chuyển 100.000.000 đồng vào tài khoản số 19035443906011 của L mở tại Ngân hàng Techcombank để nhờ L mua hộ 01 thẻ Voucher trị giá 150.000.000 đồng. Ngày 27/6/2020, anh Hoàng A tiếp tục chuyển 296.580.000 đồng vào tài khoản trên của L để thanh toán trước 30% giá trị xe và tiền đăng ký xe ô tô.

Trong thời gian chờ giao xe, anh Hoàng A đã 03 lần chuyển tiền vào tài khoản của L để thanh toán tiền lắp phụ kiện với số tiền là 79.640.000 đồng (ngày 02/7/2020 chuyển 22.700.000 đồng; ngày 09/7/2020 chuyển 37.940.000 đồng; ngày 14/7/2020 chuyển 19.000.000 đồng). Sau khi nhận được tổng số tiền của anh Hoàng A là 476.220.000 đồng, L đã chiếm đoạt và sử dụng trả nợ cho chị Nguyễn Thị Huyền Tr trú tại tổ 14, phường PT, thành phố TQ 120.000.000 đồng vay trước đó, còn lại chi tiêu cá nhân hết và không có khả năng trả lại.

Lần 3. Ngày 06/7/2020, anh Nguyễn Trường Gi, trú tại tổ 8, phường TH, thành phố TQ đến Showroom Vinfast Tuyên Quang tìm hiểu để mua xe ô tô và được L tư vấn, anh Gi quyết định mua xe ô tô nhãn hiệu Vinfast Fadil bản cao cấp với giá 491.900.000 đồng, hình thức trả góp trước 30% giá trị xe. L tiếp tục nhờ chị Nguyễn Thị Trần Tr làm hợp đồng mua bán xe. Ngày 07/7/2020, anh Gi đến Showroom gặp L để ký hợp đồng mua bán xe và thỏa thuận nhận xe vào ngày 22/7/2020. Sau khi ký hợp đồng, L viết phiếu thu đề ngày 07/7/2020, số tiền 147.570.000 đồng và giao cho anh Gi 01 bản (phiếu chỉ có L và anh Gi ký) nhưng anh Gi chưa nộp tiền ngay. Đến ngày 08/7/2020, anh Gi nhờ vợ là chị Trần Thị Liên chuyển số tiền 147.570.000 đồng vào tài khoản số 103007107003 của L tại Ngân hàng Viettinbank để thanh toán tiền mua xe. Ngày 13/7/2020, L gọi điện bảo anh Gi nếu nộp thuế trước bạ thì chuyển tiền để L nộp hộ, anh Gi đồng ý và  đến Showroom để đưa tiền cho L nhưng do không có mặt ở Showroom nên L nhờ chị Đinh Khánh Ngọc là nhân viên tư vấn bán hàng tại Showroom nhận hộ số tiền 21.000.000đ rồi chuyển vào tài khoản của L tại Ngân hàng Viettinbank. Sau đó, L chuyển số tiền 20.000.000 đồng vào tài khoản của Công ty để đặt cọc tiền mua xe cho anh Gi, số tiền còn lại là 148.570.000 đồng, L sử dụng chi tiêu cá nhân hết. Ngày 30/9/2020, Công ty đã trả lại cho anh Gi số tiền 20.000.000 đồng.

Lần 4. Ngày 10/7/2020, chị Nguyễn Thị H, trú tại tổ 14, phường TH, thành phố TQ đến Showroom Vinfast Tuyên Quang và được L tư vấn mua xe ô tô nhãn hiệu Vinfast Fadil bản tiêu chuẩn với giá 373.000.000 đồng, chị H đã nhờ L mua hộ 01 thẻ Voucher trị giá 350.000.000 đồng với giá tiền là 343.000.000 đồng. Ngày 11/7/2020, chị H đến Showroom đưa cho L số tiền 350.000.000 đồng (343.000.000 đồng để mua thẻ Voucher, còn 7.000.000 đồng trừ vào tiền thanh toán mua xe còn thiếu) và thỏa thuận nhận xe ngày 17/7/2020; L viết phiếu thu đề ngày 11/7/2020, số tiền 350.000.000 đồng giao cho chị H 01 bản (phiếu chỉ có L và chị H ký). Thấy phiếu thu không có chữ ký của Giám đốc, chị H thắc mắc thì L giải thích tiền mua thẻ Voucher không liên quan đến Showroom nên giám đốc không ký xác nhận.

Do chưa mua được thẻ Voucher, ngày 15/7/2020 L gọi điện thoại cho chị H nói không kịp giao xe như thỏa thuận và hẹn đến ngày 22/7/2020 giao xe, đồng thời yêu cầu chị H chuyển nốt 6.000.000 đồng tiền mua xe còn thiếu và 2.000.000 đồng để làm thủ tục sang tên vì chị H nhờ người khác đứng tên mua xe để được hưởng ưu đãi giảm giá, chị H đồng ý và chuyển 8.000.000 đồng vào tài khoản của L tại Ngân hàng Vietinbank. Toàn bộ số tiền nhận của chị H là 358.000.000 đồng, L sử dụng chi tiêu cá nhân hết và không có khả năng trả lại.

Tổng số tiền L chiếm đoạt của 04 khách hàng là 1.397.613.000 đồng. Ngày 15/7/2020, do đã sử dụng hết số tiền này vào mục đích cá nhân, không có khả năng hoàn trả nên Trần Quốc L đã đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TQ tự thú.

Tại Kết luận giám định số 813 ngày 28/10/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang kết luận: Chữ viết, chữ ký ghi tên Trần Quốc L dưới mục “người lập phiếu” trên phiếu thu tiền đề ngày 07/7 và 11/7/2020 với chữ ký, chữ viết của Trần Quốc L trên mẫu so sánh là do cùng 1 người viết và ký; chữ viết, chữ ký trên phiếu thu đề ngày 25/5/2020 (trừ chữ ký, chữ viết ghi tên Lê Thị Thu H dưới mục người nộp tiền và chữ ký đúng tên Nguyễn Quốc K dưới mục giám đốc Showroom) với chữ viết, chữ ký của L trên mẫu so sánh là do cùng một người ký và viết.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 14/2021/HSST ngày 13 tháng 05 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang đã căn cứ khoản 4 Điều 175; điểm b, r, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt: Bị cáo Trần Quốc L 12 (mười hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội  “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 30 Bộ luật Tố tụng hình sự; các Điều 584, 585, 586, 589, 357, 468 Bộ luật Dân sự. Buộc bị cáo Trần Quốc L bồi thường cho chị Lê Thị Thu H, trú tại P1104, tòa A13, khu đô thị SĐ, quận LB, thành phố Hà Nội số tiền 414.823.000 đồng; bồi thường cho anh Nguyễn Hoàng A, trú tại số 4B1 Y, phường PĐH, quận HBT, thành phố Hà Nội số tiền 476.220.000 đồng.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự giữa bị cáo với các bị hại khác, nghĩa vụ trong trường hợp bị cáo chậm thi hành án, xử lý vật chứng, án phí sơ thẩm và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 24 tháng 5 năm 2021, bị hại chị Lê Thị Thu H kháng cáo, nội dung không đồng ý với quyết định của bản án sơ thẩm buộc bị cáo L phải trả số tiền còn lại là 362.208.000 đồng mà số tiền này phải do giám đốc Showroom Vinfast Tuyên Quang là ông Nguyễn Quốc K và Showroom Vinfast Tuyên Quang phải trả cho chị.

Ngày 08 tháng 6 năm 2021, bị hại anh Nguyễn Hoàng A kháng cáo, nội dung không đồng ý với việc Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Trần Quốc L 12 năm 06 tháng tù, cần phải áp dụng thêm tình tiết tăng nặng “Phạm tội đến cùng”.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Bị hại - chị Lê Thị Thu H vắng mặt và có đơn đề nghị rút toàn bộ nội dung kháng cáo;

- Bị hại - anh Nguyễn Hoàng A đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội có quan điểm:

Bản án sơ thẩm đã xét xử bị cáo Trần Quốc L về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo khoản 4 Điều 175 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội; hình phạt 12 năm 06 tháng tù áp dụng đối với bị cáo là phù hợp. Sau khi xét xử, bị cáo không kháng cáo. Bị hại Lê Thị Thu H đã có đơn đề nghị rút toàn bộ nội dung kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại Điều 342 Bộ luật Tố tụng hình sự để đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của chị H. Đối với kháng cáo của bị hại Nguyễn Hoàng A cho rằng bị cáo có hứa hẹn nhưng không thực hiện việc bồi thường là vấn đề thực hiện trách nhiệm dân sự, không phải là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội đến cùng”. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị hại Nguyễn Hoàng A, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

- Người bào chữa cho bị cáo có quan điểm:

Tòa án sơ thẩm kết tội bị cáo về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo khoản 4 Điều 175 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội. Bị cáo có nhân thân tốt, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo tỏ ra rất ân hận, ăn năn hối  cải, đã thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi phạm tội và tác động gia đình bồi thường được một phần cho các bị hại. Quá trình sinh sống tại địa phương bị cáo chấp hành tốt pháp luật và các quy định của nơi cư trú, thực hiện các nghĩa vụ của công dân, tại phiên tòa sơ thẩm các bị hại đều xin giảm nhẹ hình phạt. Do đó mức hình phạt 12 năm 06 tháng tù và quyết định về phần trách nhiệm dân sự mà Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định với bị cáo là chính xác và phù hợp. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị hại Nguyễn Hoàng A, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm. Bị hại Lê Thị Thu H đã rút toàn bộ kháng cáo nên đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của chị H.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Kháng cáo của bị hại Lê Thị Thu H và Nguyễn Hoàng A có nội dung và hình thức phù hợp, nằm trong thời hạn kháng cáo quy định tại Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự nên được giải quyết theo trình tự phúc thẩm.

[1.2] Bị hại Lê Thị Thu H có kháng cáo về phần trách nhiệm dân sự, tuy nhiên chị đã có văn bản rút toàn bộ kháng cáo. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội, của người bào chữa cho bị cáo Trần Quốc L về việc áp dụng Điều 342 Bộ luật Tố tụng hình sự để đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của chị H.

[1.3] Bị hại Nguyễn Hoàng A đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa. Hội đồng xét xử căn cứ đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội và những người tham gia tố tụng để xét xử vụ án vắng mặt anh Nguyễn Hoàng A theo quy định tại Điều 351 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Về nội dung: Tại phiên tòa, bị cáo Trần Quốc L thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu, vật chứng thu giữ, các kết luận giám định, lời khai của các bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và những chứng cứ khác, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Trong thời gian từ tháng 5 đến tháng 7/2020, Trần Quốc L là nhân viên tư vấn bán hàng tại Showroom ô tô Vinfast chi nhánh Tuyên Quang thuộc Công ty TNHH kinh doanh thương mại và dịch vụ Vinfast (địa chỉ số 260 đường QT, phường PT, thành phố TQ) đã lợi dụng nhiệm vụ được giao tư vấn bán hàng xe ô tô Vinfast và lòng tin của các khách hàng để thực hiện hành vi nhận tiền, Voucher của các khách hàng mua xe nhờ thanh toán theo các hợp đồng mua bán xe ô tô giữa Công ty TNHH kinh doanh thương mại và dịch vụ Vinfast với các khách hàng. Sau khi nhận tiền và Voucher bị cáo không thực hiện việc thanh toán với Công ty theo quy định mà chiếm đoạt để sử dụng chi tiêu cá nhân.

Tổng giá trị tài sản bị cáo L chiếm đoạt của 04 bị hại là 1.397.613.000 đồng. Cụ thể: đã chiếm của chị Lê Thị Thu H, trú tại P1104, tòa A13, khu đô thị SĐ, quận LB, thành phố Hà Nội số tiền 64.823.000 đồng và 01 thẻ Voucher trị giá 350.000.000 đồng, chiếm đoạt của anh Nguyễn Hoàng A, trú tại ngõ Y, phường PĐH, quận HBT, Hà Nội số tiền 476.220.000 đồng, chiếm đoạt của anh Nguyễn Trường Gi, trú tại tổ 8, phường TH, thành phố TQ số tiền 148.570.000 đồng và chiếm đoạt của chị Nguyễn Thị H, trú tại tổ 14, phường TH, thành phố TQ số tiền 358.000.000 đồng.

Với hành vi nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã kết án bị cáo Trần Quốc L về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại khoản 4 Điều 175 Bộ luật Hình sự có khung hình phạt tù từ 12 năm, 20 năm hoặc tù chung thân là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét kháng cáo của anh Nguyễn Hoàng A về hình phạt 12 năm 06 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đối với bị cáo và đề nghị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội đến cùng”, Hội đồng xét xử xét thấy:

[3.1] Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã cân nhắc, xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo cụ thể như sau: Về tình tiết tăng nặng, bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng phạm tội 02 lần trở lên quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ, trước khi phạm tội bị cáo không có tiền án, tiền sự; đã tự thú về hành vi phạm tội của mình; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; trước khi mở phiên tòa sơ thẩm, bị cáo đã tác động gia đình tự nguyện khắc phục hậu quả bồi thường được một phần thiệt hại cho các bị hại; tại phiên tòa sơ thẩm các bị hại - trong đó có anh Nguyễn Hoàng A - đều có quan điểm đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Quá trình thực hiện hành vi phạm tội không có nguyên nhân khách quan, chủ quan nào tác động để cản trở hành vi phạm tội của bị cáo, bị cáo đã lợi dụng lòng tin, lạm dụng sự tín nhiệm của các bị hại để thực hiện tội phạm nên không thuộc trường hợp phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm e khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự “Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng” như kháng cáo của bị hại Nguyễn Hoàng A. Với nhân thân, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, hình phạt 12 năm 06 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đối với bị cáo là phù hợp.

[3.2] Với những phân tích, nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử nhận thấy quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội, của người bào chữa cho bị cáo Trần Quốc L về việc không chấp nhận kháng cáo của anh Nguyễn Hoàng A là có căn cứ, đúng pháp luật nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự:

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị hại Nguyễn Hoàng A.

2. Giữ nguyên quyết định về hình sự tại bản án hình sự sơ thẩm số 14/2021/HSST ngày 13 tháng 05 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang như sau:

Căn cứ: khoản 4 Điều 175; điểm b, r, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Xử phạt: Bị cáo Trần Quốc L 12 (mười hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

3. Căn cứ Điều 342 Bộ luật Tố tụng hình sự, đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của chị Lê Thị Thu H. Quyết định về phần trách nhiệm dân sự của bị cáo Trần Quốc L với chị Lê Thị Thu H tại bản án hình sự sơ thẩm số 14/2021/HSST ngày 13 tháng 05 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang có hiệu lực pháp luật.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật kể từ thời điểm hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

310
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 31/2022/HS-PT  

Số hiệu:31/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về