Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 277A/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 277A/2023/HS-ST NGÀY 18/09/2023 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 18 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 268/2023/TLST - HS, ngày 18 tháng 8 năm 2023 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 274/2023/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 8 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 55/2023/HSST-QĐ, ngày 14/9/2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: TRẦN VĂN K; Tên gọi khác: N; Sinh ngày 17 tháng 9 năm 1972; Tại tỉnh Đ.

Nơi cư trú: Liên gia 10, tổ dân phố G, phường T, thành phố B; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 05/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Trần Văn Đ (đã chết); Con bà: Phạm Thị L (đã chết); Bị cáo chưa có vợ, con;

Tiền sự: Không.

Tiền án: 01 tiền án.

Ngày 03/6/2016, bị Tòa án nhân dân thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đ xử phạt 01 năm tù, về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và 01 năm 03 tháng tù, về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, tổng hợp hình phạt chung cho cả hai tội là 02 năm 03 tháng tù (tại bản án 17/2016/HSST). Ngày 29/5/2018, chấp hành xong hình phạt tù về địa phương sinh sống, bị cáo chưa được xóa án tích.

Nhân thân:

Ngày 06/11/2008, bị Tòa án nhân dân thành phố B xử phạt 01 năm tù, về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (tại bản án 342/2008/HSST). Ngày 06/8/2009, chấp hành xong hình phạt tù về địa phương sinh sống, bị cáo đã được xóa án tích.

Ngày 07/9/2023, bị Tòa án nhân dân thành phố Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản theo Bản án số 67/2023/HSST.

Bị cáo Trần Văn K đang bị tạm giữ, tạm giam trong một vụ án khác tại Nhà tạm giữ Công an thành phố G, tỉnh Đắk Nông, từ ngày 26/3/2023 cho đến nay. (Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt)

- Bị hại: Ông Ma Văn T, sinh năm 1965 (Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt) Địa chỉ: Số A, tỉnh lộ 8, xã C, huyện C, tỉnh Đ.

- Người có quyn li, nghĩa vụ liên quan: Ông Đoàn Quang H, sinh năm 1974 (Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt) Địa chỉ: Thôn Đ, xã T, huyện L, tỉnh Lâm Đồng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Văn K, sinh năm: 1972, trú tại: Tổ dân phố G, phường T, thành phố B là người đã có 01 tiền án, về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích.

Khoảng 14 giờ ngày 16/02/2023, Trần Văn K đi xe ôm đến trước cổng Bệnh viện Đ1, địa chỉ: B H, phường T, thành phố B uống cà phê với ông Ma Văn T (là người lái xe ôm), trú tại: A đường T, xã C, huyện C, tỉnh Đ. Sau đó, ông T có khách đi xe ôm nên không uống cà phê với K nữa mà điều khiển xe mô tô biển số 47K9-xxxx chở khách đi. Sau đó, ông T quay lại và dựng xe ở trước C bệnh viện Đ1 chờ khách, thì K đi đến chỗ ông T đang đứng tiếp tục nói chuyện. Trong lúc nói chuyện, thì ông T nói cho K biết xe mô tô biển số 47K9-xxxx của ông T bị hư và nhờ K kiểm tra xem hư chỗ nào để sửa, thì K đồng ý. Sau khi được ông T giao xe mô tô, thì K điều khiển xe mô tô biển số 47K9-xxxx lưu thông theo hướng từ trường Đại học B đến đường N, thành phố B. Trên đường đi kiểm tra xe mô tô cho ông T, do không có tiền tiêu xài cá nhân nên K nảy sinh ý định chiếm đoạt đoạt xe mô tô của ông T và điều khiển xe mô tô của ông T về nhà anh Trần Văn Q (là anh trai của K) tại tổ dân phố G, phường T, thành phố B cất giấu. Đến ngày 28/02/2023, K điều khiển xe mô tô biển số 47K9-xxxx đến nhà của anh Đoàn Quang H, ở địa chỉ: Thôn B, xã T, huyện L, tỉnh Lâm Đồng, để bán cho anh H. Do không biết đây là tài sản do phạm tội mà có nên anh H đã đồng ý mua với giá 1.200.000 đồng. Đến khoảng 15 giờ 30 phút ngày 24/3/2023, ông T phát hiện K đang ở khu vực công viên P, phường T, thành phố B nên đã làm đơn trình báo gửi Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B để xử lý. (BL: 30-44, 52-70, 88-89) Tại Kết luận định giá tài sản số 77/KL-HĐĐGTS ngày 24/4/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng thành phố B, kết luận: Xe mô tô nhãn hiệu LIFAN màu nâu, biển số 47K9-xxxx, trị giá 2.500.000 đồng.

Tại Cáo trạng số: 269/CT-VKS-HS ngày 18/8/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Đ đã truy tố bị cáo Trần Văn K về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Trần Văn K, đồng thời giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Trần Văn K theo bản cáo trạng số 269/CT-VKS-HS ngày 18/8/2023 và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 175; điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Văn K từ 09 (Chín) tháng đến 12 (Mười hai) tháng tù.

Các biện pháp tư pháp:

Xử lý vật chứng: Chấp nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B ra Quyết định xử lý vật chứng, trả lại 01 xe mô tô hiệu LIFAN màu nâu, biển số 47K9- xxxx cho ông Ma Văn T là chủ sở hữu Về phần dân sự của vụ án: Ông Ma Văn T đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo Trần Văn K bồi thường gì nên không đề cập giải quyết. Anh Đoàn Quang H không yêu cầu bị cáo Trần Văn K phải hoàn trả số tiền 1.200.000 đồng là tiền mua xe mô tô nhãn hiệu LIFAN màu nâu, biển số 47K9-xxxx.

Các vấn đề khác đề nghị HĐXX chấp nhận như nội dung tại bản Cáo trạng.

Bị cáo không tranh luận nội dung gì, chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố B và Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố B và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Trong quá trình điều tra, bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi của mình đã thực hiện. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, biên bản khám nghiệm hiện trường, phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và phù hợp với các tài liệu thu thập được có trong hồ sơ vụ án, Vì vậy, có đủ căn cứ kết luận: Do có ý thức coi thường pháp luật, coi thường quyền sở hữu tài sản của người khác nên ngày 16/02/2022, tại trước Cổng Bệnh viện Đ1, địa chỉ: B H, phường T, thành phố B Trần Văn K, là người đã có 01 tiền án, về tội Trộm cắp tài sản và Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích, tiếp tục lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của ông Ma Văn T 01 xe mô tô hiệu LIFAN, biển số 47K9-xxxx, trị giá 2.500.000 đồng Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự. Điều 175 Bộ luật hình sự, quy định:

1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

....

b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dn đến không có khả năng trả lại tài sản.

....” Do đó, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố bị cáo Trần Văn K về tội: “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Hành vi của bị cáo không những trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp đối với tài sản của bị hại, mà còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người có đủ năng lực hành vi và nhận thức, bị cáo phải biết tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ, mọi hành vi chiếm đoạt tài sản trái pháp luật đều bị trừng trị nghiêm khắc. Nhưng do ý thức coi thường pháp luật, vì động cơ vụ lợi, muốn có tiền tiêu xài nhanh chóng nên bị cáo đã lợi dụng lòng tin của ông Ma Văn T đưa xe nhờ bị cáo sửa chữa nhưng bị cáo đã bán xe để lấy tiền tiêu xài cá nhân.

Do đó, cần phải áp dụng hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới đảm bảo tính giáo dục, răn đe đối với bị cáo và phòng ngừa chung trong toàn xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử cần áp dụng khi lượng hình đối với bị cáo.

[5] Các biện pháp tư pháp:

Xử lý vật chứng: Chấp nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B ra Quyết định xử lý vật chứng, trả lại 01 xe mô tô hiệu LIFAN màu nâu, biển số 47K9- xxxx cho ông Ma Văn T là chủ sở hữu Về trách nhiệm dân sự: Ông Ma Văn T đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo Trần Văn K bồi thường gì nên không đề cập giải quyết. Anh Đoàn Quang H không yêu cầu bị cáo Trần Văn K phải hoàn trả số tiền 1.200.000 đồng là tiền mua xe mô tô nhãn hiệu LIFAN màu nâu, biển số 47K9-xxxx.

[6] Đối với anh Đoàn Quang H là người mua xe mô tô biển số 47K9-xxxx từ bị can Kiển. Quá trình điều tra xác định, anh H không biết đây là tài sản do phạm tội mà có nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B, không đề cập xử lý là phù hợp.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 175; điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

1. Tuyên bố: Bị cáo Trần Văn K phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” Xử phạt bị cáo Trần Văn K 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi chấp hành án.

2. Các biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Điều 584, Điều 585 và Điều 589 Bộ luật dân sự 2015.

Xử lý vật chứng: Chấp nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B ra Quyết định xử lý vật chứng, trả lại 01 xe mô tô hiệu LIFAN màu nâu, biển số 47K9- xxxx cho ông Ma Văn T là chủ sở hữu.

Về trách nhiệm dân sự: Ông Ma Văn T đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo Trần Văn K bồi thường gì nên không đề cập giải quyết. Anh Đoàn Quang H không yêu cầu bị cáo Trần Văn K phải hoàn trả số tiền 1.200.000 đồng là tiền mua xe mô tô nhăn hiệu LIFAN màu nâu, biển số 47K9-xxxx nên không đề cập giải quyết.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Buộc bị cáo Trần Văn K phải chịu 200.000 đồng tiền án phí Hình sự sơ thẩm.

Bị cáo; Bị hại, Người có quyền lợi, nghĩa vụ hên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

5
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 277A/2023/HS-ST

Số hiệu:277A/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về