Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 255/2021/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 255/2021/HS-PT NGÀY 19/10/2021 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 10 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 317/TLPT-HS ngày 03 tháng 8 năm 2021 đối với bị cáo Nguyễn Trường G do có Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 42/QĐ-VKS ngày 16 tháng 7 năm 2021 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đối với bản án hình sự sơ thẩm số 90/2021/HS-ST ngày 18 tháng 6 năm 2021 của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị cáo bị kháng nghị:

Nguyễn Trường G; Sinh ngày 17/12/1998 tại tỉnh Thái Bình; Thường trú: Số 24 đường số A, Khu phố B, phường D, thành phố Đ, tỉnh Bình Dương; Nghề nghiệp: Không; Học vấn: 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Quý H và bà Nguyễn Thị H; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: 1/Tại bản án số 03/2016/HSST ngày 05/01/2016 của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. 2/Tại bản án số 249/2016/HSST ngày 18/8/2016 của Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xử phạt 01 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Tổng hợp với mức hình phạt 01 năm tù của Bản án số 03/2016/HSST ngày 05/01/2016 của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung là 02 năm tù.

Bị bắt, tạm giam từ ngày 17/12/2020 - Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội D vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng đầu tháng 12/2020, chị Trịnh Kim D, sinh năm 1999 thông qua mạng xã hội Facebook có kết bạn và quen biết với Nguyễn Trường G (tên gọi khác là Long), sau đó 02 người cho số điện thoại và kết bạn qua mạng zalo để trò chuyện với nhau rồi nảy sinh tình cảm. Khoảng 24 giờ ngày 12/12/2020, do có hẹn gặp nhau nên G đi xe taxi đến nhà D và ngủ lại tại đây. Đến khoảng 14 giờ, ngày 13/12/2020, cả hai dậy và đi ăn, D đưa chiếc xe máy hiệu Honda Vision màu đen, biển số 67D-788.01 của D cho G chở đến quán Lẩu Thái tại số 200 Nguyễn Văn Khối, Phường 9, quận Gò Vấp để ăn uống. Khi đến nơi G vào gửi xe và giữ thẻ xe cùng với chìa khóa xe. Cả hai vào ăn được khoảng 30 phút, lúc này G nảy sinh ý định chiếm đoạt xe máy của chị D, G nói tý nữa có thêm bạn đến, sau đó G đi ra ngoài gọi điện thoại và lấy xe máy của D rời khỏi quán ăn, D cứ nghĩ G ra ngoài đón bạn nhưng đợi mãi không thấy G quay lại. Ngay sau đó, G xóa hết tài khỏan Facebook và Zalo với mục đích không để D liên lạc được.

Sau khi lấy được xe, G chạy xuống đường Nguyễn Văn Bứa, huyện Hóc Môn dùng điện thoại gọi cho Lê Duy K để chào bán chiếc xe Honda Vision vừa chiếm đoạt với giá 9.000.000 đồng, số tiền này G đã tiêu xài hết.

Do liên lạc với G không được nên chị D có nhờ Đội hiệp sỹ phòng chống tội phạm Tp. Hồ Chí Minh giúp đỡ. Đến khoảng 21 giờ, ngày 15/12/2020 thì chị D cùng với Đội hiệp sỹ phát hiện G đang ngồi ăn với bạn ở quán ăn trên đường Song Hành, huyện Hóc Môn nên đã đến giữ G. Đồng thời chị D đến Công an Phường 9, quận Gò Vấp trình báo toàn bộ sự việc và kết hợp Đội Cảnh sát hình sự Công an quận Gò Vấp xuống đưa G về làm rõ. Tại Cơ quan Công an, G đã thừa nhận hành vi chiếm đoạt tài sản như đã nêu trên và chỉ điểm nơi cư ngụ của K để cơ quan Công an triệu tập K về làm việc.

Tại Bản kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Gò Vấp đã kết luận: Chiếc xe mô tô hiệu Honda Vision, biển số 67D1-788.01 trị giá tại thời điểm chiếm đoạt là 23.500.000 đồng.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 90/2021/HS-ST ngày 18-6-2021 của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh đã Quyết định:

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 175; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Trường G 02 (hai) năm tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 17/12/2020.

Ngoài ra bản án còn tuyên về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

Ngày 16/7/2021, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh có kháng nghị phúc thẩm số 42/QĐ-VKS kháng nghị bản án sơ thẩm nêu trên đề nghị không áp dụng tình tiết “tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo Nguyễn Trường G.

Tại phiên tòa phúc thẩm, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sau khi phân tích tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, mức hình phạt là phù hợp. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, cấp sơ thẩm lại áp dụng tình tiết tăng nặng “tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo là không phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 107 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) do hành vi phạm tội mà bị cáo thực hiện tại 02 Bản án số 03/2016/HSST ngày 05-01-2016 của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh và Bản án số 249/2016/HSST ngày 18/6/2016 của Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương khi bị cáo chưa đủ 18 tuổi và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng nghị sửa bản án sơ thẩm và giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại đơn xin xét xử vắng mặt ngày 12/10/2021, bị cáo Nguyễn Trường G đồng ý nội D kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và giữ nguyên toàn bộ lời khai đã trình bày tại cơ quan điều tra và phiên tòa sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội D vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Kháng nghị phúc thẩm số 42/QĐ-VKS-P7 ngày 16/7/2021 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh làm trong thời hạn luật định là hợp lệ nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án cấp phúc thẩm.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát Điều tra - Công an quận Gò Vấp, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp, Kiểm sát viên, Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thẩm phán, Thư ký Tòa án trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3] Về sự có mặt của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm: Bị cáo Nguyễn Trường G hiện đang bị tạm giam tại trại tạm giam Bố Lá - Công an Thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 12/10/2021, bị cáo G có đơn xin xét xử vắng mặt. Xét sự vắng mặt của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm do trở ngại khách quan và sự vắng mặt đó không gây trở ngại cho việc xét xử nên Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ điểm c khoản 1 Điều 351 của Bộ luật Tố tụng hình sự vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định.

[4] Căn cứ lời khai của bị cáo Nguyễn Trường G tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, cùng các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở xác định: Thông qua mạng xã hội, Nguyễn Trường G quen biết và nảy sinh tình cảm với bị hại Trịnh Kim D. Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 13/02/2020, tại quán Lẩu Thái địa chỉ 200 đường Nguyễn Văn Khối, Phường 9, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh sau khi được bị hại D đưa chìa khóa và thẻ giữ xe chiếc xe Honda Vision biển số 67D1-788.01, Nguyễn Trường G đã nảy sinh ý định chiếm đoạt xe bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Bị cáo G giả vờ ra ngoài nghe điện thoại, lấy xe máy trên rồi điều khiển xe chạy xuống địa bàn huyện Hóc Môn để bán cho đối tượng Lê Duy K với giá 9.000.000 đồng, sau đó bỏ trốn. Tài sản chiếm đoạt được định giá trị giá 23.500.000 đồng. Bản án hình sự số 90/2021/HS-ST ngày 18-6- 2021 của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh đã áp dụng điểm a khoản 1 Điều 175 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để xử phạt bị cáo về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” là đúng người, đúng tội, không oan sai.

[5] Xét Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 42/QĐ-VKS ngày 16-7-2021 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Hội đồng xét xử nhận thấy: Nhân thân bị cáo Nguyễn Trường G từng 02 lần bị kết án về hành vi chiếm đoạt tài sản tại Bản án số 03/2016/HSST ngày 05-01-2016 của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh và Bản án số 249/2016/HS- ST ngày 18-8-2016 của Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Nhận thấy, tại thời điểm bị cáo thực hiện hành vi phạm tội và thời điểm Tòa án kết án, bị cáo là người dưới 18 tuổi nên được áp dụng các quy định tại Điều 107 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) về xóa án tích. Xét thấy hành vi phạm tội mà bị cáo G thực hiện tại bản án 03/2016/HSST ngày 05-01-2016 và bản án 249/2016/HS-ST ngày 18-8-2016 đều thuộc tội phạm ít nghiêm trọng và đều được thực hiện khi bị cáo dưới 18 tuổi nên căn cứ điểm b khoản 1 Điều 107 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) bị cáo được coi là không có án tích.

Về phần hình phạt, do bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) nên có căn cứ giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

Do đó, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xét chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, sửa bản án sơ thẩm.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[6] Bị cáo Nguyễn Trường G không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 345; điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Chấp nhận Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 42/QĐ-VKS ngày 16/7/2021 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và sửa bản án sơ thẩm.

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 175; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 và Điều 50 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Xử phạt bị cáo Nguyễn Trường G 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Thời hạn tù tính từ ngày 17/12/2020.

Căn cứ Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Bị cáo Nguyễn Trường G không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

100
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 255/2021/HS-PT

Số hiệu:255/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/10/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về