Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 25/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH CỬU, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 25/2024/HS-ST NGÀY 02/02/2024 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 02 tháng 02 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Đ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 18/2024/TLST-HS ngày 19 tháng 01 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 19/2024/QĐXXST- HS ngày 19 tháng 01 năm 2024, đối với bị cáo:

Nguyễn Văn S, sinh năm 1987, tại tỉnh Đ; Nơi cư trú: Ấp C, xã B, huyện V, tỉnh Đ; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1963 và bà Huỳnh Thị N, sinh năm 1964; Có vợ là Võ Thị Kim V, sinh năm 1992 và có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2010, con nhỏ nhất sinh năm 2015. Gia đình có 04 anh em, bị cáo là thứ hai.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 16/6/2020 bị Tòa án nhân dân huyện V Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào Cơ sở cai nghiện bắt buộc đến ngày 24/9/2021 chấp hành xong.

Bị bắt tạm giam ngày 29/10/2023, hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện V.

* Bị hại: Anh Nguyễn Tấn Đ, sinh năm 1982.

Nơi cư trú: Tổ E, ấp F, xã T, huyện V, tỉnh Đ.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị Hà Thị T, sinh năm 1984.

Nơi cư trú: Tổ E, ấp F, xã T, huyện V, tỉnh Đ.

* Người làm chứng:

- Anh Đặng Thanh H, sinh năm 1990.

Nơi cư trú: Ấp F, xã T, huyện V, tỉnh Đ.

-Anh Nguyễn Văn T1, sinh năm 1968.

Nơi cư trú: Ấp T, xã B, huyện V, tỉnh Đ.

- Anh Nguyễn Phước Q, sinh năm 1985.

Nơi cư trú: Tổ C, ấp C, xã B, huyện V, tỉnh Đ.

Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chị Hà Thị T có mặt; những người tham gia tố tụng khác vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ ngày 02/5/2023, anh Nguyễn Tấn Đ tổ chức uống bia tại nhà thuộc tổ E, ấp F, xã T, huyện V, tỉnh Đ. Tham dự tiệc gồm có Nguyễn Văn S, Đặng Thanh H, Nguyễn Văn T1, Nguyễn Phước Q. Đến khoảng 11 giờ cùng ngày, tiệc nhậu hết bia nên anh Đ đưa cho S 100.000 đồng để S đi mua bia về uống tiếp. S không có phương tiện nên anh Đ giao cho S xe mô tô hiệu Honda RSX biển số 60F1- xxxxx do anh Đ đang quản lý sử dụng (đứng tên chủ sở hữu là chị Hà Thị T là vợ anh Đ) để đi mua bia. S điều khiển xe ra khỏi nhà và lưu thông trên trục đường A thuộc ấp A, xã T, huyện V thi này sinh ý định chiếm đoạt xe mô tô bán lấy tiền tiêu xài. Lúc này, S nhìn thấy người đàn ông (không rõ họ tên, địa chỉ) đang đi bộ, S đến hỏi và bán xe mô tô hiệu Honda RSX biển số 60F1-xxxxx cho người đàn ông này với giá 1.000.000 đồng, rồi S bỏ trốn. Anh Đ không thấy S quay về trả xe, nên đã đến Công an xã T, huyện V tố giác tội phạm. Công an xã T tiếp nhận nguồn tin, lập hồ sơ ban đầu và chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V giải quyết theo quy định của pháp luật. Ngày 29/10/2023, Nguyễn Văn S bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V bắt giữ.

+ Vật chứng vụ án: xe mô tô hiệu Honda Wave RSX biển số 60F1-36194 không thu hồi được.

+ Tại Kết luận giám định số 36/KL-ĐGTS ngày 17/5/2023 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự huyện V kết luận: xe mô tô biển số 60F1-36194, trị giá 8.000.000 đồng.

+ Trách nhiệm dân sự: Anh Nguyễn Tấn Đ yêu cầu Nguyễn Văn S bồi thường giá trị xe mô tô hiệu Honda RSX biển số 60F1-xxxxx là 8.000.000đ, S đã bồi thường đủ.

Tại bản Cáo trạng số 28/CT-VKSVC ngày 18 tháng 01 năm 2024, Viện kiểm sát nhân dân huyện V đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện V để xét xử Nguyễn Văn S về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a, khoản 1 Điều 175 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện V giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Văn S từ 03 tháng 04 ngày đến 05 tháng tù. Trước khi phiên tòa diễn ra, bị cáo và gia đình đã bồi thường đủ cho anh Đ số tiền 8.000.000 đồng, anh Đ không yêu cầu bồi thường gì thêm nên về bồi thường dân sự đã giải quyết xong nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét. Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Ý kiến của bị cáo tại phiên tòa: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình, đồng ý với lời luận tội của Kiểm sát viên và không có ý kiến tranh luận gì. Bị cáo chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về thủ tục tố tụng:

Về các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, người tham gia tố tụng không có ý kiến khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện. Hành vi, quyết định tố tụng, người tiến hành tố tụng đều đảm bảo đúng pháp luật.

Bị hại anh Đ vắng mặt tại phiên tòa nhưng trước đó, Tòa án đã tống đạt hợp lệ cho anh Đ các văn bản tố tụng là Quyết định đưa vụ án ra xét xử, giấy triệu tập tới tham gia phiên tòa. Đồng thời, việc vắng mặt của anh Đ không trở ngại cho việc xét xử nên Hội đồng xét xử áp dụng Điều 292 của Bộ luật tố tụng hình sự tiến hành xét xử vắng anh Đ và quyền kháng cáo của anh Đ được tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

[2]. Về tội danh và hình phạt:

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu ở trên. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, bị hại, người làm chứng và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 11 giờ ngày 02/5/2023, tại xã T, huyện V, tỉnh Đ. Nguyễn Văn S được anh Đ cho mượn xe mô tô hiệu Honda RSX biển số 60F1- xxxxx để đi mua bia, sau đó S nảy sinh ý định chiếm đoạt và bán xe mô tô cho người đàn ông không rõ lai lịch lấy 1.000.000 đồng, rồi bỏ trốn. Trị giá tài sản chiếm đoạt là 8.000.000 đồng. Như vậy, bị cáo Nguyễn Văn S đã phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a, khoản 1 Điều 175 của Bộ luật hình sự.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác nên cần xử phạt bị cáo một mức án đủ nghiêm để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người công dân tốt, sống tôn trọng pháp luật, đồng thời còn nhằm răn đe và phòng ngừa chung.

[3]. Xét về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì thấy: Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; tích cực tác động gia đình bồi thường, khắc phục hậu quả; trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải. Ngoài ra bị cáo còn có hoàn cánh khó khăn (thuộc hộ cận nghèo), vợ đã bỏ đi, một mình bị cáo đang phải nuôi 03 con còn nhỏ. Phía người bị hại cũng có ý kiến xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo vì thời điểm tết nguyên đán cũng sắp cận kề (đã là ngày 23 tết) nên Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 và Điều 54 Bộ luật hình sự giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

[4]. Đối với người đàn ông mua xe mô tô của bị cáo không xác định được họ, tên, địa chỉ, đề nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V tiếp tục xác minh, làm rõ và xử lý theo quy định pháp luật.

[5]. Về trách nhiệm dân sự: Anh Đ yêu cầu bị cáo bồi thường trị giá xe mô tô hiệu Honda RSX biển số 60F1-xxxxx theo kết luận định giá số 36/KL-ĐGTS ngày 17/5/2023 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự huyện V là 8.000.000 đồng. Trước khi phiên tòa diễn ra, bị cáo và gia đình đã bồi thường đủ cho anh Đ số tiền 8.000.000 đồng. Như vậy bị cáo đã thực hiện xong nghĩa vụ bồi thường cho anh Đ.

[6]. Về án phí: Do bị cáo phạm tội nên bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng.

[7]. Quan điểm và đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, phù hợp với quy định của pháp luật nên có cơ sở chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn S phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 175; các điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật hình sự và Điều 328 Bộ luật tố tụng hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn S 03 (ba) tháng 04 (bốn) ngày tù, thời hạn tù được tính từ ngày 29 tháng 10 năm 2023.

Do thời hạn phạt tù bằng thời gian bị cáo đã bị tạm giam nên trả tự do ngay tại phiên tòa cho bị cáo nếu bị cáo không bị tạm giam về một tội phạm khác.

2. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Nguyễn Văn S phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

3. Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

7
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 25/2024/HS-ST

Số hiệu:25/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Cửu - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về