Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 246/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN THIẾT, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 246/2022/HS-ST NGÀY 27/12/2022 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 23 và 27 tháng 12 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 200/2022/TLST-HS ngày 08 tháng 11 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 281/2022/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 12 năm 2022 đối với bị cáo:

Trần Lê D, sinh năm: 2003 tại Bình Thuận; Nơi ĐKHKTT: Thôn B, xã B, huyện B, tỉnh Bình Thuận; Nơi ở: Khu phố 0, phường M, Tp P, tỉnh Bình Thuận; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Văn H và bà Lê Xuân Đ; Vợ con chưa có;

Tiền án, tiền sự, nhân thân: Không.

Bị cáo bị bắt ngày 25/9/2022 theo Quyết định truy nã và đang bị tạm giam; Có mặt.

- Bị hại: Ông Nguyễn H H, sinh năm 1999 Địa chỉ: Khu phố 0, phường M, Tp P, tỉnh Bình Thuận; Vắng mặt.

- Người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Đỗ Văn T, sinh năm 1991, địa chỉ: Khu phố 0, phường Đ, Tp P, tỉnh Bình Thuận; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 18/4/2021, Trần Lê D gọi điện thoại cho Nguyễn H H nhờ chở đi lấy tiền nợ thì H đồng ý. Sau đó, H điều khiển xe mô tô biển số 86C1- 962.xx chở D đến ngã ba rạng thuộc khu phố 02, phường Hàm Tiến, Tp Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận thì D bảo H dừng xe lại. Tại đây, D nói với H cho D mượn xe của H để D tự đi lấy tiền. Do là bạn quen biết nên H đã đồng ý giao chiếc xe trên cho D.

Sau khi mượn được xe, D điều khiển xe đến sòng bạc tại xã Thiện Nghiệp để chơi sóc đĩa, đến khoảng 00 giờ 05 phút ngày 19/4/2022 D đánh bạc thua hết tiền nên D nãy sinh ý định đem xe mô tô biển số 86C1- 962.xx của H đi cầm thế để lấy tiền chơi đánh bạc. D điện thoại cho Đỗ Văn T nói muốn cầm thế 01 chiếc xe mô tô và hẹn Tài đến cổng chữ Y thuộc phường Đức Long, thành phố Phan Thiết để giao dịch thì Tài đồng ý.

Sau khi gặp nhau, Tài có hỏi nguồn gốc chiếc xe nhưng D nói là xe của D nên Tài đồng ý cầm thế chiếc xe với giá 10.000.000 đồng, khi đã nhận tiền D đưa lại cho Tài 1.000.000 đồng và nói đưa trước tiền lời, hôm nào chuộc lại xe khỏi đưa. D cầm số tiền 9.000.000 đồng tiếp tục đến sòng bạc dùng số tiền trên để trả nợ, đánh bạc và tiêu sài cá nhân hết.

Do không thấy D trả lại xe nên ngày 19/4/2021 H đến Công an phường Mũi Né trình báo sự việc. Công an phường Mũi Né tiến hành làm việc với Trần Lê D, D đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Vật chứng vụ án:

- 01 chiếc xe mô tô hiệu Honda loại xe Winner X màu đen cam, biển số 86C1- 962.xx, số máy: KC34E1100815, số khung: 3707LY000347.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 152/KL-HDĐG ngày 21/6/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Phan Thiết kết luận: 01 chiếc xe mô biển số 86C1-962.xx, nhãn hiệu Honda WinnerX, giá trị tài sản là 36.000.000 đồng.

Cơ quan điều tra đã trả lại xe mô tô biển số 86C1-962.xx cho Nguyễn H H. H không yêu cầu bồi thường về dân sự.

Đỗ Văn T đã nhận lại số tiền 9.000.000 đồng từ gia đình của Trần Lê D. Tài không yêu cầu bồi thường về dân sự.

Tại bản Cáo trạng số 202/CT-VKSPT-HS ngày 02/11/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết quyết định, truy tố bị cáo Trần Lê D về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 175 của Bộ luật hình sự.

Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết luận tội đối với bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm, giữ nguyên quyết định truy tố theo cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố: Trần Lê D, phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng: Điểm a khoản 1 Điều 175; Điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Trần Lê D từ 09 tháng tù đến 12 tháng tù.

Đối với Đỗ Văn T là người nhận cầm thế chiếc xe mô tô biển số 86C1-962.xx nhưng không biết tài sản do D phạm tội mà có nên không xem xét xử lý.

Bị cáo không tranh luận với với đại diện Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Cơ quan điều tra Công an thành phố Phan Thiết và Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, theo hồ sơ đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự và thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Quá trình điều tra bị cáo, người tham gia tố tụng khác và tại phiên tòa bị cáo đều không thắc mắc, khiếu nại về những hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Tại phiên tòa, bị hại Ông Nguyễn H H; người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ án Ông Đỗ Văn T vắng mặt nhưng đã có lời khai trong hồ sơ vụ án, không gây trở ngại cho việc xét xử. Đồng thời bị cáo đồng ý và đại diện Viện kiểm sát đề nghị xét xử vắng mặt. Vì vậy Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông H, Ông T theo quy định tại Điều 292 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[3] Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như đã nêu ở trên. Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và phù hợp các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa nên có đủ cơ sở kết luận:

Sau khoảng 21 giờ 30 phút ngày 18/4/2021 tại ngã ba rạng thuộc khu phố 02, phường Hàm Tiến, Tp Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, sau khi mượn được xe mô tô biển số 86C1- 962.xx trị giá 36.000.000 đồng của Nguyễn H H để đi lấy tiền nhưng D không lấy tiền mà đi đánh bạc, sau khi đánh bạc hết tiền, Trần Lê D nảy sinh ý định, đồng thời chiếm đoạt chiếc xe mô tô nêu trên của H để cầm cố cho Đỗ Văn T lấy 9.000.000 đồng để trả nợ, đánh bạc và tiêu sài cá nhân, sau đó bỏ trốn.

Trần Lê D là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, hành vi nêu trên của bị cáo là cố ý, đã phạm vào tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự. Cho nên cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

[4] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở H tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất ổn định về trật tự tại địa phương nhưng có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn nên bị cáo phải chịu mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng; về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo;

đồng thời tác động gia đình hoàn trả lại số tiền 9.000.000 đồng cho Đỗ Văn T. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự nên cần áp dụng và xem xét để lượng hình cho bị cáo.

Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ cũng như nhân thân của bị cáo và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử thấy cần phải xử lý nghiêm tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục, răn đe bị cáo ý thức tuân thủ pháp luật, ngăn ngừa bị cáo phạm tội mới; đồng thời giáo dục những người khác biết tôn trọng pháp luật, tích cực tham gia phòng, chống tội phạm.

[6] Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng, trả lại chiếc xe mô tô biển số 86C1-962.xx cho Nguyễn H H. Việc xử lý như trên là phù hợp với quy định của pháp luật nên không tiếp tục đặt ra để xử lý.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Ông Nguyễn H H; người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ án Ông Đỗ Văn T không có yêu cầu bồi thường gì về dân sự đối với bị cáo nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Đỗ Văn T là người nhận cầm thế chiếc xe mô tô biển số 86C1-962.xx nhưng không biết tài sản do D phạm tội mà có nên Cơ quan cảnh sát điều tra không xử lý Tài là có cơ sở.

[9] Qúa trình điều tra và tại phiên tòa, D khai có hành vi đánh bạc vào đêm ngày 18/4/2021 và rạng sáng ngày 19/4/2021. Vì vậy Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, làm rõ để xử lý theo quy định của pháp luật.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Điểm a khoản 1 Điều 175; Điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Trần Lê D, phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Xử phạt: Trần Lê D 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 25/9/2022.

Áp dụng: Khoản 2 Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Trần Lê D phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo bản án sơ thẩm của bị cáo là 15 ngày kể từ ngày tuyên án; của bị hại, người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

29
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 246/2022/HS-ST

Số hiệu:246/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:27/12/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về