Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 194/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC NINH, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 194/2023/HS-ST NGÀY 08/09/2023 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 08/9/2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai hình thức trực tuyến vụ án hình sự thụ lý số 200/2023/HSST, ngày 22/8/2023 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 198/2023/QĐXXST-HS ngày 28/8/2023 đối với bị cáo:

Trần Văn H, sinh năm 1978; HKTT: Số 85, đường N, phường N, thành phố B, tỉnh B; Nghề nghiệp: Lao động tự do;Trình độ văn hóa: 07/12;Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Giới tính: Nam; Bố là: Trần Văn C, sinh năm 1949; Mẹ là: Vũ Thị V, sinh năm 1954; Gia đình có 04 anh em, bị cáo là con thứ hai trong gia đình;Vợ: Phạm Ngọc A, sinh năm 1986 Con: Có 02 con (con lớn sinh năm 2007, con nhỏ sinh năm 2013).

Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/6/2023 đến nay, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh B.

Bị hại: A Nguyễn Văn H, sinh năm 1992 (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn P, xã Đ, huyện Y, tỉnh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Năm 2021, Trần Văn H có mở quán bán nước tại gầm cầu Khả Lễ, phường Võ Cường, thành phố B, tỉnh B. Quá trình H bán hàng nước có quen biết anh Nguyễn Văn H. Khoảng 13 giờ ngày 03/10/2021, anh H1 điều khiển 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu đen, biển kiểm soát 98N3-xxxx (xe mang tên anh Nguyễn Văn Ch, sinh năm 1976, HKTT: Xã Đông Phong, huyện Yên Phong, tỉnh B) chở anh Nguyễn Văn Ch đến quán nước của H. Do có sự quen biết từ trước nên anh H1 dắt xe vào quán và gửi H chiếc xe mô tô trên để đi có việc vài hôm, H đồng ý nhận trông xe cho anh H1. Do tin tưởng H nên anh H1 giao chìa khóa xe và xe cho H. Sau đó, anh H1 và anh Ch lên xe ô tô đi làm quay phim còn H cất xe ở lán dưới gầm cầu Khả Lễ. Khoảng 01 tuần sau H không thấy H1 gọi điện liên hệ hay nhắn gì với H để lấy xe. Do bản thân, không có tiền ăn tiêu nên H đã điều khiển xe mô tô Wave màu đỏ biển số 99G1- xxxxx của H đi đến nhà anh Phạm Đức H2, sinh năm 1988 ở khu Đọ Xá, phường Ninh Xá, thành phố B. Khi đến nơi H bảo với anh H2 là H có chiếc xe bị mất giấy tờ, đang cần tiền nên muốn cầm cố lấy tiền ăn tiêu và nhờ anh H2 mang đi cầm hộ thì anh H2 đồng ý. Sau đó H chở anh H2 đến gầm cầu Khả Lễ để lấy xe, đến đoạn khu Niềm Xá, phường Kinh Bắc, thành phố B, H đứng đợi ở ngoài còn anh H2 đi xe vào bên trong ngõ gặp anh Nguyễn Hữu H3, sinh năm 1984 ở khu Niềm Xá, phường Kinh Bắc, thành phố B để nhờ anh H3 đi cầm cố hộ. A H2 có nói với anh H3 là xe của H nhờ mang đi cầm cố hộ, H3 đồng ý. Sau đó, anh H2 chờ ở nhà H3, H3 khai đã mang xe đến nhà anh Dương Minh Q (ở cạnh nhà anh H3) để cầm chiếc xe trên cho anh Q với giá 2.000.000. Sau đó anh H3 cầm tiền về đưa cho anh H2 và anh H2 đưa lại cho H số tiền 2.000.000đ. Số tiền này H đã ăn tiêu cá nhân hết. Đến nay H vẫn chưa trả lại xe cho anh H1. Sau khi cắm xe được 3,4 hôm thì anh H1 có gọi điện cho H để lấy xe nhưng H đã vứt sim số 035863xxxx, cắt đứt liên lạc với anh H1 và đi lang thang khắp nơi để tránh bị anh H1 tìm thấy và đòi xe. Ngày 18/10/2021 anh H1 đến Công an phường Võ Cường trình báo sự việc. Nhận thấy hành vi của mình là vi phạm nên ngày 09/6/2023, H đã đến Công an thành phố B đầu thú khai nhận hành vi phạm tội của bản thân. Quá trình điều tra Q không thừa nhận việc cầm xe cho anh Hoà, Cơ quan điều tra đã thông báo truy tìm nhưng không thu hồi được xe.

Tại bản Kết luận định giá trong tố tụng hình sự số 22/KL-HĐĐGTS ngày 16/02/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND thành phố B kết luận 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, mầu đen, BKS: 98N3-xxxx đã qua sử dụng tại thời điểm chiếm đoạt trị giá 6.700.000 đồng.

Cáo trạng số 157/CT-VKSNDTPBN, ngày 21/8/2023 Viện kiểm sát nhân dân thành phố B truy tốTrần Văn H phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã nêu là đúng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B thực hành quyền công tố tại phiên toà, sau khi phân tích tính chất, nội dung hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử :

Tuyên bố bị cáo Trần Văn H phạm tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

Áp dụng điểm b khoản 1, Điều 175; Điểm i, s Khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38; BLHS xử phạt:

Trần Văn H từ 12 đến 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 09/6/2023.

Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 BLHS; Điều 585; Điều 589 BLDS: Buộc bị cáo phải bồi thường cho anh H1 là 6.700.000đ Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Bị cáo nhận tội, không tham gia tranh luận gì mà đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố B, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố B, Kiểm sát viên: Hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và của người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Về chứng cứ buộc tội:

Căn cứ vào lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, lời khai của bị hại, bản kết luận định giá và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét toàn diện chứng cứ, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, của bị cáo, đủ cơ sở kết luận:

Do có sự quen biết và tin tưởng Nguyễn Văn H nên khoảng 13h ngày 03/10/2021 anh Nguyễn Văn H gửi 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu đen, biển kiểm soát 98N3-xxxx và giấy tờ xe cho H trông giữ hộ vài hôm. Khoảng một tuần sau không thấy anh H1 đến lấy xe. Do không có tiền ăn tiêu nên H đã mang xe mô tô anh H1 đi cắm được 2.000.000 đồng. Số tiền trên H đã ăn tiêu hết, sau đó bỏ trốn và không chuộc lại xe trả cho anh H1. Chiếc xe mô tô H chiếm đoạt trị giá 6.700.000 đồng, hiện không thu hồi được.

Hành vi trên của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, phạm vào điểm b, khoản 1, Điều 175 BLHS mà Viện kiểm sát đã truy tố là hoàn toàn đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Xét về nhân thân của bị cáo: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tại cơ quan điều tra và tại phiên toà hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo ra đầu thú vì vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s, khoản 1,2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Sau khi xem xét, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội cũng như nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo ,xét thấy, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đề nghị xét xử bị cáo từ 12 đến 15 tháng là phù hợp.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Theo biên bản định giá chiếc xe mô tô bị cáo chiếm đoạt của anh H1 trị giá 6.700.000 đồng, hiện nay chưa thu hồi được, anh H1 yêu cầu bị cáo phải bồi thường. Bởi vậy, buộc bị cáo phải bồi thường cho anh H1 6.700.000đ

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7]Về vật chứng: Tài sản không thu hồi được nên không xem xét

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

[9] Các vấn đề khác: Đối với anh Phạm Đức H2, Nguyễn Như H3 khi nhận mang xe đi cầm cố hộ không biết chiếc xe là tài sản do H phạm tội mà có nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B không xử lý là đúng quy định của pháp luật. Đối với anh Dương Minh Q, quá trình điều tra Q không nhận việc cầm chiếc xe mô tô từ anh Nguyễn Như H3 nên chưa đủ căn cứ để xử lý đối với Q.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Trần Văn H phạm tội Lạm dụng tín nhiệm tài sản.

Áp dụng điểm b, khoản 1, Điều 175; điểm i, s, khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38; Điều 48 BLHS; Điều 585; Điều 589 BLDS; Khoản 1, Khoản 3 Điều 329; Điều 106; Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Nghị quyết số 326/2016/QH14 ngày 31/12/2016 của Quốc Hội.

Xử phạt: Trần Văn H 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 09/6/2023. Tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày 08/9/2023 để đảm bảo thi hành án.

Buộc bị cáo phải bồi thường cho anh Nguyễn Văn H 6.700.000đ ( sáu triệu bảy trăm nghìn đồng) Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bên phải thi hành án không thi hành thì hàng tháng phải chịu một khoản lãi của số tiền chậm thi hành án theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự tương ứng với thời gian chậm thi hành án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm và 335.000đ án phí daan sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được kết quả bản án hoặc ngày niêm yết kết quả bản án theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

33
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 194/2023/HS-ST

Số hiệu:194/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Ninh - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về