Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 147/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BẾN CÁT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 147/2023/HS-ST NGÀY 26/07/2023 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 7 năm 2023 tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh D xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 114/2023/TLST- HS ngày 08 tháng 6 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 118/2023/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 6 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 12/2023/HSST-QĐ ngày 14/7/2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Đặng Hồng T, sinh năm 1973, tại tỉnh Thái Bình; nơi cư trú: Tổ 4, phường A, thành phố B, tỉnh G; Chỗ ở: Tổ 8, khu phố D, khu phố G, phường H, thị xã C, tỉnh D; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Xuân H, sinh năm 1953 và bà Nguyễn Thị O, sinh năm 1953; bị cáo có vợ tên Lê Thị H1, sinh năm 1983; bị cáo có 01 con sinh năm 2013; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân:

- Ngày 12/6/1994, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh G xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” đối với hành vi thực hiện ngày 06/01/1994. Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 06/01/1996, chấp hành xong án phí ngày 25/7/1998. Ngày 25/7/1998, Đội Thi hành án thị xã B, tỉnh G ra Quyết định đình chỉ khoản bồi thường 220.000 đồng đối với bị cáo.

- Ngày 20/8/1996, bị cáo bị Tòa án nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh G xử phạt 03 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” đối với hành vi thực hiện ngày 20/4/1996. Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 24/4/1999, chấp hành xong án phí ngày 25/7/1998.

- Ngày 15/5/2001, bị cáo bị Tòa án nhân dân tỉnh G xử phạt 42 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” đối với hành vi thực hiện ngày 14/12/2000. Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 01/7/2004, chấp hành xong án phí ngày 03/7/2001.

- Ngày 11/01/2007, bị cáo bị Tòa án nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh G xử phạt 36 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” đối với hành vi thực hiện ngày 17/6/2006. Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 14/5/2009, chấp hành xong án phí và số tiền thu lợi bất chính 950.000 đồng ngày 20/01/2009.

- Ngày 10/11/2021, bị cáo bị bắt giữ trong trường khẩn cấp và bị tạm giữ, tạm giam đối với hành vi Lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra ngày 08/11/2021 tại khu phố G, phường H, thị xã C, tỉnh D. Ngày 23/9/2022, bị cáo bị Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát xử phạt 02 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” xảy ra ngày 08/11/2021. Hiện bị cáo đang chấp hành hình phạt tù tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Bến Cát đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 159/2022/HS-ST ngày 23/9/2022. Bị cáo có mặt.

- Bị hại: Ông Trần Trung H2, sinh năm 1987; nơi cư trú: Thôn K, xã L, huyện X, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Vũ Lê T1, sinh năm 1993; HKTT: Tổ 1, thị trấn V, huyện V, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt.

- Người làm chứng: Ông Lê Công V, sinh năm 1990. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Đặng Hồng T và ông Trần Trung H2 có quan hệ bạn bè quen biết, sống cùng nhà trọ Hải Hà thuộc đường DJ8, khu phố N, phường M, thị xã C, tỉnh D.

Khoảng 18 giờ ngày 05/7/2019, ông H2 đi qua phòng trọ số 4 do bị cáo thuê ở để ngồi chơi với bị cáo. Khoảng 15 phút sau, ông Lê Công V (sinh năm 1990, hộ khẩu thường trú: xã Q, huyện E, tỉnh Đắk Lắk) cũng đến chơi. Lúc này, bị cáo hỏi mượn xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter biển số 79X1-xxxxx của ông H2 để đi công việc và hẹn đến 12 giờ ngày 06/7/2019 trả xe. Ông H2 đồng ý và giao xe cùng giấy chứng nhận đăng ký xe cho bị cáo mượn. Sáng 06/7/2019, bị cáo trên đường điều khiển xe mô tô đi đến thành phố Hồ Chí Minh để giải quyết công việc thì nảy sinh ý định chiếm đoạt xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter biển số 79X1-xxxxx để đem bán lấy tiền tiêu xài. Sau đó bị cáo điều khiển xe đến một tiệm mua bán xe cũ không rõ địa chỉ tại thành phố Hồ Chí Minh và bán được số tiền 12.500.000 đồng rồi bỏ trốn.

Trưa ngày 06/7/2019, ông H2 không thấy bị cáo trả xe mô tô cho mình nên điện thoại cho bị cáo nhưng bị cáo không nghe máy. Đến ngày 15/7/2019, ông H2 đến Công an phường M, thị xã C trình báo vụ việc.

Nhận được tin báo, Công an phường M đến nhà trọ Hải Hà xác minh thì được biết bị cáo T đã bỏ đi từ ngày 05/7/2019 đến ngày 15/7/2019 chưa rõ đi đâu, làm gì nên Công an phường M, thị xã C lập hồ sơ ban đầu và chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Bến Cát điều tra theo thẩm quyền.

Ngày 29/7/2019 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Bến Cát yêu cầu định giá tài sản số 134/YC gửi Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Bến Cát định giá 01 xe mô tô hiệu Yamaha Exciter biển số 79X1- xxxxx. Theo Kết luận định giá ngày 31/7/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự của thị xã C, kết luận: 01 xe mô tô hiệu Yamaha Exciter biển số 79X1-xxxxx có trị giá 18.000.000 đồng.

Ngày 20/11/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Bến Cát ban hành Quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết nguồn tin về tội số 61/QĐ đối với vụ án Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản xảy ra ngày 05/7/2019 tại khu phố N, phường M, thị xã C, tỉnh D. Ngày 02/10/2022 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Bến Cát xác định bị cáo Đặng Hồng T đang bị khởi tố ở vụ án khác theo Quyết định khởi tố vụ án hình sự số 303/QĐ đối với vụ án“ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, xảy ra ngày 08/11/2021 tại khu phố G, phường H, thị xã C, tỉnh D.

Ngày 23/11/2022, Cơ quan Điều tra Công an thị xã Bến Cát ban hành Quyết định khởi tố phục hồi giải quyết nguồn tin về tội phạm số: 10/QĐ đối với tin báo “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” xảy ra ngày 05/7/2019 tại khu phố N, phường M, thị xã C, tỉnh D. Ngày 23/12/2022 Cơ quan điều tra công an thị xã Bến Cát ra quyết định khởi tố vụ án hình sự và khởi tố bị can đối với bị cáo Đặng Hồng T.

Tại Cáo trạng số 132/CT-VKSBC ngày 08/6/2023 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát tỉnh D truy tố bị cáo về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát trong phần tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 175; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Đặng Hồng T từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

- Về xử lý vật chứng: Không thu hồi được nên không đề nghị giải quyết.

- Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Đặng Hồng T có nghĩa vụ bồi thường cho bị hại ông Trần Trung H2 số tiền 18.000.000 đồng.

Tại phiên tòa, bị cáo Đặng Hồng T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng số 132/CT-VKBC ngày 08/6/2023 của Viện Kiểm sát nhân nhân thị xã Bến Cát, tỉnh D đã truy tố. Bị cáo tư nguyện đồng ý bồi thường cho bị hại H số tiền 18.000.000 đồng. Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt để sớm trở về chăm sóc bố mẹ già.

Tại đơn xét xử vắng mặt và trong quá trình tố tụng: Bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường giá trị xe là 18.000.000 đồng và đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Bến Cát, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh D đã truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định: Khoảng 18 giờ ngày 05/7/2019, tại nhà trọ Hải Hà thuộc khu phố N, phường M, thị xã C, tỉnh D, bị cáo Đặng Hồng T có hành vi mượn xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter biển số 79X1-xxxxx trị giá 18.000.000 đồng của ông Trần Trung H2 để đi công việc. Sau đó, bị cáo nảy sinh ý định chiếm đoạt xe và đem bán lấy tiền tiêu xài hết, rồi bỏ trốn. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự. Do đó, Cáo trạng số 132/CT-VKSBC ngày 08 tháng 6 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát và luận tội của Kiểm sát viên truy tố đối với bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Về tính chất mức độ tội phạm: Tội phạm bị cáo T thực hiện là ít nghiêm trọng do có mức cao nhất khung hình phạt đến 03 năm tù, bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Tội phạm do bị cáo thực hiện đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, về nhận thức bị cáo biết việc chiếm đoạt tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Chỉ do động cơ vụ lợi, muốn có tiền tiêu xài, thỏa mãn nhu cầu cá nhân nhưng lười lao động, bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Để góp phần ổn định tình hình an ninh trật tự, giữ gìn nếp sống văn minh của địa phương, Hội đồng xét xử xem xét quyết định áp dụng mức án tù có thời hạn tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo đồng thời nêu gương phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Tuy nhiên khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử có xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo như: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đó là những tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có [6] Nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu.

[7] Bị cáo phải chấp hành mức hình phạt tù tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung.

[8] Trách nhiệm dân sự: Tài sản bị cáo chiếm đoạt không thu hồi được. Bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 18.000.000 đồng. Xét thấy, quá trình tố tụng và tại phiên tòa bị cáo tự nguyện đồng ý bồi thường giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 18.000.000 đồng và việc tự nguyện bồi thường của bị cáo là phù hợp quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[9] Xét ý kiến của Kiểm sát viên về tội danh, mức hình phạt và điều luật áp dụng là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[10] Án phí hình sự và dân sự: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 175; Điều 38; khoản 1 Điều 46; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 56 của Bộ luật Hình sự;

Căn cứ Điều 106, Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Căn cứ Điều 584, 585, 586, 589 Bộ luật Dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố bị cáo Đặng Hồng T phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Xử phạt bị cáo Đặng Hồng T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù; tổng hợp với hình phạt tù 02 (hai) năm tù của Bản án hình sự sơ thẩm số 159/2022/HSST ngày 23 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh D; buộc bị cáo Đặng Hồng T phải chấp hành hình phạt chung là 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 10/11/2021.

2. Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo Đặng Hồng T bồi thường cho bị hại ông Trần Trung H2 số tiền 18.000.000 (mười tám triệu) đồng.

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án nếu người phải thi hành án chưa thi hành xong số tiền phải thi hành thì còn phải trả lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014).

3. Án phí:

+ Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Đặng Hồng T phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng.

+ Án phí dân sự sơ thẩm: Bị cáo Đặng Hồng T phải chịu 900.000 (chín trăm ngàn) đồng.

4. Về quyền kháng cáo:

+ Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 26/7/2023).

+ Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

37
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 147/2023/HS-ST

Số hiệu:147/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Bến Cát - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về