Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 145/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 145/2022/HS-PT NGÀY 15/04/2022 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 31/2022/TLPT-HS ngày 19/01/2022 đối với bị cáo TRƯƠNG ĐÌNH X bị đưa ra xét xử về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”; do có kháng cáo của bị cáo và kháng nghị của Viện kiểm sát đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 45/2021/HS-ST ngày 24/11/2021của Tòa án nhân dân Tỉnh Bình Định.

- Bị cáo có kháng cáo và bị kháng nghị:

TRƯƠNG ĐÌNH X - sinh năm: 1952 tại huyện H, Bình Định; nơi cư trú: 04 đường Đ, phường T, Thành phố Q, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: Kinh doanh; trình độ văn hóa: Đại học; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trương Đình T1 (chết) và bà: Trần Thị N (chết); vợ: Trần Thị Mai X, sinh năm 1958, và 03 người con, lớn nhất sinh năm 1977, nhỏ nhất sinh năm 1982; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/9/2020 đến ngày 29/01/2021. Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

Bị cáo khước từ luật sư bào chữa cho bị cáo.

- Bị hại: Bà Nguyễn Thu H1, sinh năm 1977; trú tại: Nhà số 1, ngách 23/1, ngõ 23 đường C, phường C, quận Đ1, Tp. Hà Nội. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

TRƯƠNG ĐÌNH X là Chủ tịch Hội đồng thành viên Công ty TNHH Đầu tư Xây dựng và Kinh doanh Kết cấu hạ tầng KCN S (gọi tắt là Công ty S) theo Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư Dự án xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng Khu công nghiệp S I, huyện H2, tỉnh Bình Thuận, đồng thời TRƯƠNG ĐÌNH X cũng là Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty CP A. Do TRƯƠNG ĐÌNH X có mối quan hệ với ông Bùi Ngọc K (Phó Giám đốc Công ty TNHH Thương mại và sản xuất M) về việc ký hợp đồng hợp tác khai thác tận thu titan, cát trắng, nên ông Bùi Ngọc K kêu gọi bà Nguyễn Thu H1 (là người quen trước đó với ông K) cùng tham gia góp vốn cùng ông X để thực hiện dự án trên. Khoảng tháng 8/2018, ông K dẫn bà H1 vào Thành phố Hồ Chí Minh gặp và giới thiệu với TRƯƠNG ĐÌNH X tại quán cà phê của khách sạn Kỳ Hòa Sài Gòn trên đường 3 Tháng 2, Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh. Tại đây, TRƯƠNG ĐÌNH X cho biết do thiếu vốn nên chậm triển khai dự án nói trên và đề nghị ông K, bà H1 giúp đỡ, hỗ trợ vốn cho X đẩy nhanh tiến độ dự án. Sau đó, bà H1 và ông K còn gặp TRƯƠNG ĐÌNH X tại nhà riêng của X tại Số 04 đường Đ, thành phố Q để bàn tiếp về việc này. TRƯƠNG ĐÌNH X cũng nhiều lần ra Hà Nội gặp trực tiếp hoặc điện thoại cho bà H1 hỏi mượn tiền để chi phí cho việc khởi công, động thổ dự án nói trên. Đầu tháng 11/2018, vì sắp chuyển nhượng được lô đất tại thành phố Đà Nẵng nên bà H1 điện thoại báo cho TRƯƠNG ĐÌNH X ra Hà Nội để bà H1 cho X mượn tiền.

Ngày 08/11/2018, tại văn phòng Công ty CP A, TRƯƠNG ĐÌNH X đề nghị Phan Thị Cẩm T2 (Kế toán trưởng của Công ty CP A) làm Giấy ủy quyền số:

05/IPICO-UQ/18 theo thông tin do TRƯƠNG ĐÌNH X cung cấp rồi đưa cho X ký, X mang giấy về nhà đóng dấu tròn “CÔNG TY TNHH ĐẦU TƯ XÂY DỰNG VÀ KINH DOANH KẾT CẤU HẠ TẦNG KHU CÔNG NGHIỆP S” và dấu “CHỦ TỊCH HĐTV TRƯƠNG ĐÌNH X” lên chữ ký của X trên giấy ủy quyền. Sau đó, TRƯƠNG ĐÌNH X mang giấy ủy quyền nói trên đưa cho Nguyễn Thị Phương L1 (Phó Giám đốc Công ty CP A) để chuẩn bị đi cùng X ra Hà Nội. Giấy ủy quyền thể hiện nội dung: TRƯƠNG ĐÌNH X - Chủ tịch HĐTV Công ty TNHH Đầu tư xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng KCN S ủy quyền cho bà Nguyễn Thị Phương L1 thay mặt TRƯƠNG ĐÌNH X trực tiếp làm việc với bà Nguyễn Thu H1 để giao dịch nhận tiền vay của bà H1 về giao lại cho X; thời gian ủy quyền: 09/11/2018 - 20/11/2018.

Ngày 11/11/2018, TRƯƠNG ĐÌNH X cùng Nguyễn Thị Phương L1 đi từ Thành phố Q ra Hà Nội. Chiều tối ngày 11/11/2018, TRƯƠNG ĐÌNH X và Nguyễn Thị Phương L1 gặp bà Nguyễn Thu H1 và ông Phạm Hải H3 (Phó Trưởng ban Quản lý rủi ro Ngân hàng Phát triển Việt Nam) tại một quán cà phê trên đường Trần Huy Liệu, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Tại đây, TRƯƠNG ĐÌNH X giới thiệu L1 với ông H3 vì X quen biết ông H3 từ trước thông qua sự giới thiệu của bà H1; X nhờ ông H3 xem, tư vấn hồ sơ Công ty S xin vay vốn tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Thành Đô, Hà Nội (BIDV Thành Đô). Sáng ngày 12/11/2018, TRƯƠNG ĐÌNH X và Nguyễn Thị Phương L1 mang hồ sơ đến BIDV Thành Đô tại quận Long Biên, thành phố Hà Nội để liên hệ xin vay vốn cho Công ty S. Căn cứ theo Giấy ủy quyền số: 05/IPICO-UQ/18 ngày 08/11/2018 nêu trên, chiều ngày 12/11/2018, bà Nguyễn Thu H1 hẹn Nguyễn Thị Phương L1 đến Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) - Phòng giao dịch TP, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Tại đây, bà Nguyễn Thu H1 rút tiền từ tài khoản số 0011002813205 của bà H1 mở tại Vietcombank rồi giao số tiền 2,8 tỷ đồng cho L1 ngay tại quầy giao dịch của ngân hàng này. Nguyễn Thị Phương L1 mang số tiền này về khách sạn Mỹ Linh giao lại cho TRƯƠNG ĐÌNH X. Ngày 13/11/2018, bà Nguyễn Thu H1 đi từ thành phố Hà Nội vào thành phố Đà Nẵng để thực hiện việc giao dịch chuyển nhượng lô đất của bà nói trên. Ngày 14/11/2018, bà Nguyễn Thu H1 nhờ ông Lê Văn Thanh B (làm nghề môi giới bất động sản) nộp số tiền 01 tỷ đồng (thực nộp 999.670.000 đồng và ngân hàng thu phí chuyển tiền 330.000 đồng) của bà H1 vào tài khoản số 0051000154965 của Nguyễn Thị Phương L1 mở tại Vietcombank - Chi nhánh Bình Định và L1 đã đến Vietcombank - Phòng giao dịch TQK, thành phố Hà Nội rút tiền mặt từ tài khoản nói trên rồi mang về giao lại cho TRƯƠNG ĐÌNH X số tiền 999.670.000 đồng. Ngày 15/11/2018, bà Nguyễn Thu H1 nhờ ông Lê Hoàng Việt (làm nghề môi giới bất động sản) nộp số tiền 02 tỷ đồng (thực nộp số tiền 1.999.340.000 đồng, ngân hàng thu phí chuyển tiền 660.000 đồng) của bà H1 vào tài khoản của Nguyễn Thị Phương L1; bà H1 trực tiếp chuyển số tiền 100 triệu đồng từ tài khoản số 0011002813205 của bà H1 mở tại Vietcombank vào tài khoản của bà L1; đồng thời, bà H1 mượn của ông Bùi Ngọc K số tiền 100 triệu đồng và nhờ ông K nộp số tiền này vào tài khoản của bà L1; ông K đã nhờ người quen tên Bùi Văn H2 nộp số tiền 100 triệu đồng của ông K vào tài khoản của bà L1 trong cùng ngày. Trong ngày 15/11/2018, Nguyễn Thị Phương L1 tiếp tục đến đến Vietcombank - Phòng giao dịch TQK rút tiền mặt từ tài khoản nói trên của L1 rồi mang về giao lại cho TRƯƠNG ĐÌNH X số tiền 2.199.340.000 đồng tại khách sạn Mỹ Linh. Tổng cộng, từ ngày 12/11/2018 đến ngày 15/11/2018, bà Nguyễn Thu H1 đã giao cho Nguyễn Thị Phương L1 số tiền 06 tỷ đồng (thực chuyển số tiền 5.999.010.000 đồng, ngân hàng thu phí chuyển tiền 990.000 đồng) và L1 đã giao lại số tiền 5.999.010.000 đồng cho TRƯƠNG ĐÌNH X tại khách sạn Mỹ Linh trong cùng khoảng thời gian nói trên.

Ngày 16/11/2018, theo yêu cầu của bà Nguyễn Thu H1, Nguyễn Thị Phương L1 đã viết giấy mượn tiền thể hiện nội dung đã nhận số tiền 06 tỷ đồng của bà H1 trong các ngày 12, 14, 15/11/2018 rồi đưa giấy này cho nhân viên bán hàng của bà H1 để đưa lại cho bà H1. TRƯƠNG ĐÌNH X cùng với Nguyễn Thị Phương L1 từ Hà Nội về lại Thành phố Q trong cùng ngày 16/11/2018. Sau đó, bà Nguyễn Thu H1 gọi điện thoại yêu cầu TRƯƠNG ĐÌNH X viết giấy vay tiền giao cho bà H1 để làm bằng chứng. Ngày 23/11/2018, TRƯƠNG ĐÌNH X đi một mình ra lại Hà Nội, cũng lưu trú tại khách sạn Mỹ Linh, X đã thuê một cơ sở đánh máy vi tính đánh máy, in nội dung Giấy vay tiền đề ngày 16/11/2018 theo thông tin do X cung cấp, X ký rồi tự đóng dấu tròn “CÔNG TY CỔ PHẦN A” lên chữ ký và đóng dấu tên “TRƯƠNG ĐÌNH X”. Sau đó, TRƯƠNG ĐÌNH X hẹn gặp bà Nguyễn Thu H1 tại một quán cà phê tại ngã tư đường Bùi Thị X - Tuệ Tĩnh, gần khách sạn Mỹ Linh. Tại đây, TRƯƠNG ĐÌNH X đã đưa Giấy vay tiền đề ngày 16/11/2018 cho bà Nguyễn Thu H1, giấy này thể hiện nội dung: TRƯƠNG ĐÌNH X - Chủ tịch HĐQT Công ty CP A vay số tiền 06 tỷ đồng của bà Nguyễn Thu H1, đã nhận qua bà Nguyễn Thị Phương L1 (Ngày 12/11/2018, nhận 2,8 tỷ đồng tiền mặt; ngày 14/11/2018, chuyển khoản 01 tỷ đồng; ngày 15/11/2018, chuyển khoản 2,2 tỷ đồng). TRƯƠNG ĐÌNH X đã nhận đủ số tiền 06 tỷ đồng và hẹn trả cho bà H1 trong thời gian 3 tháng kể từ ngày nhận tiền.

Theo lời khai của TRƯƠNG ĐÌNH X thì X đã chỉ đạo cho Nguyễn Thị Phương L1 đem toàn bộ số tiền 06 tỷ đồng mà X mượn của bà Nguyễn Thu H1 nói trên đưa cho ông Phạm Hải H3 ngay sau mỗi lần L1 nhận được tiền trong các ngày 12, 14, 15/11/2018 để ông H3 chi phí “bôi trơn” cho việc Công ty S xin vay vốn 130 tỷ đồng tại BIDV Thành Đô vì ông H3 là “đầu mối” giới thiệu cho X xin vay vốn tại ngân hàng này nhưng sau đó Công ty S không vay được vốn tại BIDV Thành Đô vì không đáp ứng được yêu cầu về tài sản thế chấp để đảm bảo cho khoản vay.

Tuy nhiên, qua điều tra đã xác định được Nguyễn Thị Phương L1 không thừa nhận việc TRƯƠNG ĐÌNH X đã chỉ đạo L1 đem toàn bộ số tiền 06 tỷ đồng mà X đã mượn của bà Nguyễn Thu H1 đưa cho ông Phạm Hải H3. Nguyễn Thị Phương L1 khai và xác định đã đưa lại toàn bộ số tiền đã nhận của bà Nguyễn Thu H1 cho TRƯƠNG ĐÌNH X ngay tại phòng lưu trú tại khách sạn Mỹ Linh và không biết X đã sử dụng số tiền này vào việc gì. Nguyễn Thị Phương L1 và ông Phạm Hải H3 đều khai chỉ gặp nhau một lần vào chiều tối ngày 11/11/2018, sau đó cả hai đều không gặp lại nhau cho đến nay. Ngoài ra, ông Phạm Hải H3 không nhận bất kì khoản tiền hoặc lợi ích vật chất nào khác do Nguyễn Thị Phương L1 hoặc bất kì ai khác đưa cho ông H3 liên quan đến việc Công ty S xin vay vốn tại BIDV Thành Đô. Ngoài lời khai của TRƯƠNG ĐÌNH X, không có tài liệu, chứng cứ nào khác để làm sáng tỏ lời khai của TRƯƠNG ĐÌNH X, nên không thể điều tra, xác minh được việc X đã sử dụng số tiền 06 tỷ đồng đã mượn của bà Nguyễn Thu H1 vào mục đích gì.

Do không vay được nên TRƯƠNG ĐÌNH X không có tiền để triển khai việc khởi công, động thổ dự án nói trên và trả nợ cho bà Nguyễn Thu H1 như đã cam kết. Đến tháng 6/2019, TRƯƠNG ĐÌNH X bị bệnh nặng, phải nhập viện điều trị tại Bệnh viện Đại học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh. Sau khi bình phục, do phải tập trung tiền để trả nợ số tiền vay 8,12 tỷ đồng cho ông Bùi Ngọc K nên không còn tiền để trả nợ số tiền 06 tỷ đồng cho bà Nguyễn Thu H1. Để không phải trả số tiền nói trên cho bà Nguyễn Thu H1, TRƯƠNG ĐÌNH X đã khai là không mượn số tiền 06 tỷ đồng của bà H1 và khai nại ra việc Nguyễn Thị Phương L1 cấu kết với Phan Thị Cẩm T2 sử dụng các tờ giấy trắng A4 có chữ ký khống của X để ngụy tạo ra giấy ủy quyền, giấy vay tiền nói trên nhằm đổ trách nhiệm và vu khống X chiếm đoạt tiền của bà Nguyễn Thu H1.

Theo Kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Định đã tiến hành giám định và kết luận:

- Chữ ký dưới mục "NGƯỜI ỦY QUYỀN" trên Giấy ủy quyền số: 05/IPICO- UQ/18 ngày 08/11/2018 với chữ ký của TRƯƠNG ĐÌNH X trên mẫu so sánh là do cùng một người ký ra; chữ ký dưới mục "Người nhận tiền" trên Giấy vay tiền ngày 16/11/2018 với chữ ký của TRƯƠNG ĐÌNH X trên mẫu so sánh là do cùng một người ký ra; hình dấu tròn mực đỏ "CÔNG TY CỔ PHẦN A" trên Giấy vay tiền ngày 16/11/2018 với hình dấu tròn mực đỏ "CÔNG TY CỔ PHẦN A" trên mẫu so sánh là do cùng một con dấu đóng ra (theo Kết luận giám định số: 172/PC09 ngày 06/7/2020).

- Hình dấu tròn mực đỏ "CÔNG TY TNHH ĐẦU TƯ XÂY DỰNG VÀ KINH DOANH KẾT CẤU HẠ TẦNG KHU CÔNG NGHIỆP S" trên Giấy vay tiền ngày 16/11/2018 với hình dấu tròn mực đỏ "CÔNG TY TNHH ĐẦU TƯ XÂY DỰNG VÀ KINH DOANH KẾT CẤU HẠ TẦNG KHU CÔNG NGHIỆP S" trên mẫu so sánh là do cùng một con dấu đóng ra; hình dấu mực đỏ "TRƯƠNG ĐÌNH X" trên Giấy vay tiền ngày 16/11/2018 với hình dấu mực đỏ "TRƯƠNG ĐÌNH X" trên mẫu so sánh là do cùng một con dấu đóng ra (theo Kết luận giám định số: 295/PC09 ngày 30/10/2020).

Ngày 03/12/2020 và ngày 22/02/2021, TRƯƠNG ĐÌNH X cùng gia đình đã khắc phục, nộp lại toàn bộ số tiền 06 tỷ đồng đã chiếm đoạt để trả lại cho bị hại.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 45/2021/HSST ngày 24/11/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định quyết định.

[1] Tuyên bố: Bị cáo TRƯƠNG ĐÌNH X phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

- Căn cứ vào: Khoản 4 Điều 175; điểm b, s, v, x khoản 1, khoản 2 Điều 51;

khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự.

- Xử phạt: Bị cáo TRƯƠNG ĐÌNH X 05 (năm) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt thi hành án, được trừ thời gian bị bắt tạm giam trước từ ngày 14/9/2020 đến ngày 29/01/2021.

[2] Về trách nhiệm dân sự và các biện pháp tư pháp khác:

[2.1] Về trách nhiệm dân sự:

Áp dụng: Điều 48 BLHS; Điều 584; Điều 585; Điều 586 BLDS.

Buộc bị cáo TRƯƠNG ĐÌNH X phải có trách nhiệm trả cho bị hại Nguyễn Thu H1 số tiền 7.576.723.333. Bị cáo đã bồi thường trước 6.000.000.000 đồng, bị cáo còn phải trả cho bị hại 1.576.723.333 đồng.

Tiếp tục tạm giữ 5.000.000.000 đồng bị cáo TRƯƠNG ĐÌNH X đã nộp khắc phục hậu quả cho bà Nguyễn Thu H1 để đảm bảo thi hành án (Theo Biên lai thu số 09657 ngày 22/02/2021 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bình Định).

Trong thời hạn luật định bị cáo TRƯƠNG ĐÌNH X kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo và đề nghị xem xét lại phần lãi suất.

Ngày 17 tháng 12 năm 2021, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng có quyết định kháng nghị số 01/QĐ – VC 2 với nội dung; Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa Bản án sơ thẩm theo hướng không buộc bị cáo phải chịu một phần tiền lãi trên số tiền gốc bị cáo đã chiếm đoạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo vẫn giữ nguyên kháng cáo; Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên kháng nghị.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo về nội dung xin giảm nhẹ hình phạt, chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát, sửa một phần bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] TRƯƠNG ĐÌNH X là Chủ tịch Hội đồng thành viên Công ty TNHH Đầu tư Xây dựng và Kinh doanh Kết cấu hạ tầng KCN S đồng thời là Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty CP A. Do cần vốn để đầu tư dự án xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp S 1, huyện H2, tỉnh Bình Thuận, thông qua mối quan hệ với ông Bùi Ngọc K, X gặp bà Nguyễn Thu H1 và đặt vấn đề với bà H1 là X cần vốn để đẩy nhanh tiến độ khởi công, động thổ dự án xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp S 1 nên mượn tiền bà H1. Trong khoảng thời gian từ ngày 12/11/2018 đến ngày 15/11/2018 bà H1 cho X mượn 6.000.000.000 đồng, chuyển qua tài khoản của bà Nguyễn Thị Phương L1 trực tiếp nhận về giao lại cho X. Ngày 16/11/2018 X viết giấy vay tiền cho bà Nguyễn Thu H1 với nội dung: TRƯƠNG ĐÌNH X - Chủ tịch HĐQT Công ty CP A vay số tiền 06 tỷ đồng của bà Nguyễn Thu H1, đã nhận qua bà Nguyễn Thị Phương L1 (Ngày 12/11/2018, nhận 2,8 tỷ đồng tiền mặt; ngày 14/11/2018, chuyển khoản 01 tỷ đồng; ngày 15/11/2018, chuyển khoản 2,2 tỷ đồng). TRƯƠNG ĐÌNH X đã nhận đủ số tiền 06 tỷ đồng và hẹn trả cho bà H1 trong thời gian 3 tháng kể từ ngày nhận tiền. Tuy nhiên, X không thực hiện đúng cam kết trong giấy vay tiền, bà H1 nhiều lần yêu cầu X thực hiện nghĩa vụ trả tiền, X nại ra việc Nguyễn Thị Phương L1 cấu kết với Phan Thị Cẩm T2 lập khống các giấy tờ mượn tiền nhằm vu khống X chiếm đoạt tiền của bà H1. TRƯƠNG ĐÌNH X đã lợi dụng lòng tin của bà Nguyễn Thu H1 trong quan hệ làm ăn và mượn số tiền 6.000.000.000 đồng, sau đó bội tín chiếm đoạt số tiền trên.

Với những hành vi và hậu quả nêu trên; Bản án sơ thẩm đã xét xử bị cáo TRƯƠNG ĐÌNH X về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” được quy định tại khoản 4 Điều 175 BLHS là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2] Xét đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo của bị cáo; Hội đồng xét xử xét thấy:

Hành vi của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân, số tiền phạm tội là rất lớn (06 tỷ đồng). Bản án sơ thẩm đã đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội đồng thời xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải; đã bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bị hại 6.000.000.000 đồng; gia đình bị cáo có công với cách mạng, bị cáo là con của Bà mẹ Việt Nam anh hùng, bị cáo có thời gian tham gia hoạt động cách mạng bị nhiễm chất độc hóa học, hiện đang được hưởng chế độ trợ cấp xã hội, là người có thành tích xuất sắc trong chiến đấu được tặng thưởng huân huy chương, hiện nay bị cáo đang bị bệnh hiểm nghèo, ung thư đại tràng giai đoạn 2, tiểu đường. Các tình tiết giảm nhẹ nêu trên được quy định tại điểm b, s, v, x khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Vì vậy Bản án sơ thẩm chỉ xử phạt bị cáo mức án 05 năm tù theo khoản 4 Điều 175 BLHS là dưới mức thấp nhất của khung hình phạt liền kề, như vậy là đã xem xét chiếu cố cho bị cáo. Tại cấp phúc thẩm không có căn cứ pháp luật nào để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; do vậy đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo là không có căn cứ được chấp nhận.

[3] Xét kháng nghị của Viện kiểm sát và kháng cáo của bị cáo về tiền lãi xuất; Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo X vay mượn tài sản (tiền) bằng hình thức hợp đồng sau đó mới nảy sinh ý địnhvà thực hiện hành vi chiếm đoạt số tiền 6.000.000.000 đồng. Trước khi bị cáo X thực hiện hành vi phạm tội quan hệ giữa bị cáo và bị hại là quan hệ dân sự, nếu ai vi phạm thì giải quyết theo pháp luật dân sự. Sau khi nhận được tiền đến ngày 16 tháng 02 năm 2019 là hạn trả nợ nhưng bị cáo không thực hiện nghĩa vụ trả nợ mà còn gian dối nại ra việc Nguyễn Thị Phương L1 cấu kết với Phạm Cẩm T2 lập không các giấy tờ mượn tiền nhằm vu khống cho X chiếm đoạt tiền của bà H1, đây chính là hành vi phạm tội của X từ thời điểm này. Bản án sơ thẩm tính lãi xuất trên số tiền chiếm đoạt đến ngày xét xử sơ thẩm (24/11/2021) tức là tính lãi xuất cả trong thời gian khởi tố, truy tố xét xử sau thời điểm phạm tội là không đúng.

Xét thấy: Ngày 16 tháng 7 năm 2020, Cơ quan điều tra Công an tỉnh Bình Định có Quyết định khởi tố vụ án số: 43/QĐ - PC03. Do vậy Hội đồng xét xử thấy rằng cần buộc bị cáo phải có trách nhiệm chịu khoản tiền lãi xuất trên số tiền bị cáo đã nhận và thời gian phải chịu lãi xuất kể từ khi vi phạm nghĩa vụ thanh toán đến khi có quyết định khởi tố vụ án của Cơ quan điều tra Công an tỉnh Bình Định là phù hợp với quy định của pháp luật.

Do đó, buộc bị cáo phải trả cho bị hại cụ thể như sau:

Ngày 16/11/2018, bị cáo TRƯƠNG ĐÌNH X vay bà H1 6.000.000.000 đồng, sau 03 tháng kể từ ngày vay, ngày 16/02/2019 là ngày đến hạn trả nợ bị cáo X không trả bà H1. Như vậy: Bị cáo phải trả lãi cho bà H1 đối với số tiền 6.000.000.000 đồng từ ngày 16/02/2019 đến ngày 16/7/2020 (ngày có quyết định khởi tố vụ án) là 17 tháng, lãi xuất 10%/năm = 0,83%/tháng (6.000.000.000 đồng x 0,83%) / 30 ngày x 17 tháng = 846.600.000 đồng.

Buộc bị cáo phải trả cho bị hại tổng số tiền 6.846.600.000 đồng. Bị cáo đã bồi thường trước 6.000.000.000 đồng, bị cáo còn phải trả cho bị hại 846.600.000 đồng.

Tiếp tục tạm giữ 5.000.000.000 đồng bị cáo TRƯƠNG ĐÌNH X đã nộp khắc phục hậu quả cho bà Nguyễn Thu H1 để đảm bảo thi hành án (Theo Biên lai thu số 09657 ngày 22/02/2021 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bình Định). [4] Về án phí: Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm d khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Chấp nhận kháng nghị số 01/QĐ - VC2 ngày 17/12/2021 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng. Chấp nhận một phần đơn kháng cáo của bị cáo TRƯƠNG ĐÌNH X về trách nhiệm dân sự.

Không chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo TRƯƠNG ĐÌNH X về kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Sửa một phần Bản án hình sư sơ thẩm số 45/2021/HSST ngày 24/11/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định về trách nhiệm dân sự.

[1] Tuyên bố: Bị cáo TRƯƠNG ĐÌNH X phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

- Căn cứ vào: Khoản 4 Điều 175; điểm b, s, v, x khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 của Bộ luật hình sự.

- Xử phạt: Bị cáo TRƯƠNG ĐÌNH X 05 (năm) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt thi hành án, được trừ thời gian bị bắt tạm giam trước từ ngày 14/9/2020 đến ngày 29/01/2021.

[2] Về trách nhiệm dân sự và các biện pháp tư pháp khác:

[2.1] Về trách nhiệm dân sự:

Áp dụng: Điều 48 BLHS; Điều 584; Điều 585; Điều 586 Bộ luật Dân sự.

Buộc bị cáo TRƯƠNG ĐÌNH X phải có trách nhiệm trả cho bị hại Nguyễn Thu H1 số tiền 6.846.600.000 đồng. Bị cáo đã bồi thường trước 6.000.000.000 đồng, bị cáo còn phải trả cho bị hại 846.600.000 đồng.

Tiếp tục tạm giữ 5.000.000.000 đồng bị cáo TRƯƠNG ĐÌNH X đã nộp khắc phục hậu quả cho bà Nguyễn Thu H1 để đảm bảo thi hành án (Theo Biên lai thu số 09657 ngày 22/02/2021 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bình Định). Bà Nguyễn Thị Thu Hương được quyền đến cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Bình Định nhận số tiền trên.

[3] Về án phí: Bị cáo TRƯƠNG ĐÌNH X không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực thi hành.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án (15/4/2022).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

592
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 145/2022/HS-PT

Số hiệu:145/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về