Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 143/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 143/2022/HS-ST NGÀY 11/07/2022 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Trong các ngày từ 06 đến 11/7/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Long Biên, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 33/2022/HSST ngày 18 tháng 3 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Xuân D, sinh năm: 1989; HKTT và chỗ ở: X, Y, Z; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Văn hóa: 12/12; Con ông: Nguyễn Xuân D; Con bà: Hoàng Thị Đ; Gia đình có 03 anh chị em, bị cáo là con thứ ba; Vợ: Phạm Ngọc Th, có 02 con, con lớn sinh năm 2015, nhỏ sinh năm 2018.

Tiền án, tiền sự: Theo danh chỉ bản số 051 lập ngày 06/01/2022 của Công an quận Long Biên, thành phố Hà Nội và lý lịch địa phương cung cấp bị cáo chưa có tiền án, tiền sự.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. (Có mặt).

Bị hại: Công ty X, địa chỉ: X, Y, Z.

Người đại diện theo ủy quyền của bị hại: Bà Lương Thanh T -chức vụ: Quản lý (xin vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 15/9/2021, chị Đinh Hà L (sinh năm: 1994, HKTT: X, Y, Z) có liên hệ đặt mua của Công ty X do chị Lương Thị Thanh T (sinh năm: 1985, HKTT: X,Y, Z là người được ủy quyền) đơn hàng túi nilon zipper trị giá 5.382.000 đồng. Đến sáng ngày 16/9/2021, chị L tiếp tục đặt thêm đơn hàng trị giá 291.000 đồng.

Tổng giá trị hai đơn hàng là 5.673.000 đồng và chị L chịu trách nhiệm vận chuyển. Sau đó chị L đăng bài lên nhóm facebook “Người tìm ship, ship tìm người” để tìm người vận chuyển đơn hàng trên. Nguyễn Xuân D thấy được bài viết của chị L nên gọi vào số điện thoại của chị L là 0981707558 nhận vận chuyển hàng cho chị L. D và chị L thỏa thuận D sẽ nhận hàng ở địa chỉ số 461 Nguyễn Văn Cừ, phường Gia Thụy, Long Biên, Hà Nội rồi vận chuyển ngay về địa chỉ đường Trần Đăng Ninh kéo dài, phường Phú La, Hà Đông, Hà Nội với số tiền công là 150.000 đồng. Thỏa thuận xong, D điều khiển xe máy Honda Wave BKS: 18X1 – 0865 đến địa chỉ nhận hàng, cung cấp thông tin đơn hàng. Chị T sau khi kiểm tra thông tin thấy chính xác nên đã giao toàn bộ số hàng do chị L đặt mua cho D, hàng được chứa trong 3 bao tải gồm: 10kg túi zipper 40x60 khoá nhựa (25c/kg); 30kg túi zipper 35x45 khoá nhựa mờ; 30kg túi zipper 30x40 khoá nhựa mờ (71c/kg); 5,4kg túi PE niêm phong 38x52+5 (2.31kg/100c); 7,4kg túi PE niêm phong 28x37+5 (1.9kg/100T); 02kg túi PA 18x25; 01kg PA 25x35; 01kg túi zipper 2. Trên đường đi D thấy số tiền công nhận được không tương xứng với công sức bỏ ra để vận chuyển nên đã nảy sinh ý định chiếm đoạt số hàng trên để bán lấy tiền tiêu xài. D không chở số hàng trên đến địa chỉ như dã thoả thận với chị L mà đem đi giấu tại một căn nhà không có người ở tại khu đô thị Văn Phú, phường Phúc La, Hà Đông, Hà Nội. Khi thấy cuộc gọi từ phía chị L, D không nghe máy rồi tháo sim điện thoại bỏ đi để cắt liên lạc. Sau đó, D mở các bao tải chứa hàng, chụp ảnh mẫu mã hàng rồi đăng lên facebook cá nhân rao bán. Sau một tuần không bán được nên chiều ngày 23/9/2021, D mang số hàng chiếm đoạt được đến số 15 phố Hàng Chiếu, phường Đồng Xuân, Hoàn Kiếm, Hà Nội để chào bán thì bị chị Lương Thanh Tphát hiện và trình báo sự việc đến Cơ quan Công an. Tạm giữ của Nguyễn Xuân D:

10kg túi zipper 40x60 khoá nhựa (25c/kg); 30kg túi zipper 35x45 khoá nhựa mờ;

30kg túi zipper 30x40 khoá nhựa mờ (71c/kg); 5,4kg túi PE niêm phong 38x52+5 (2.31kg/100c); 7,4kg túi PE niêm phong 28x37+5 (1.9kg/100T); 02kg túi PA 18x25; 01kg PA 25x35; 01kg túi zipper 2; 01 xe máy Honda Wave BKS 18X1- 0865; 01 điện thoại di động Iphone SE màu trắng, 01 điện thoại Iphone 11 màu đen. Tạm giữ của chị Lương Thanh Tân: 01 USB màu đen bên trong có lưu giữ video ghi nhận hình ảnh đối tượng nhận hàng ngày 16/9/2021; 01 hoá đơn bán hàng ngày 16/9/2021; 01 hoá đơn đặt hàng ngày 16/9/2021; 01 bảng tính giá thành sản phẩm ngày 24/9/2021 đều của công ty X.

Tại Kết luận định giá tài sản số 196/KL-HĐĐGTS ngày 13/10/2021, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Long Biên kết luận:

- 10kg túi zipper 40x60 khoá nhựa (25c/kg): 650.000 đồng.

- 30kg túi zipper 35x45 khóa nhựa mờ: 1.950.000 đồng.

- 30kg túi zipper 30x40 khóa nhựa mờ (71c/kg): 1.950.000 đồng.

- 5,4kg túi PE niêm phong 38x52+5 (2.31kg/100c): 351.000 đồng.

- 7,4kg túi PE niêm phong 28x37+5 (1.9kg/100T): 481.000 đồng.

- 02kg túi PA 18x25: 144.000 đồng.

- 01kg túi PA 25x35: 72.000 đồng.

- 01kg túi zipper 2: 75.000 đồng. Tổng trị giá: 5.673.000 đồng.

Tại Bản kết luận giám định số 8829/C09-P6 ngày 10/12/2021 của Viện Khoa học hình sự-Bộ Công an kết luận: Không phát hiện thấy dấu vết cắt ghép, chỉnh sửa nội dung các file video mẫu cần giám định.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Xuân D đã khai nhận hành vi phạm tội như nội dung trên, phù hợp lời khai của bị hại cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Quá trình điều tra, bị cáo Nguyễn Xuân D có đơn đề nghị định giá lại đối với số tài sản mà D chiếm đoạt. Cơ quan CSĐT-Công an quận Long Biên đã tiến hành điều tra, xác minh và xác định Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Long Biên đã tiến hành định giá theo đúng các quy định của pháp luật. Bị cáo D cũng không xuất trình được các tài liệu chứng minh cho đề nghị của mình do vậy không có căn cứ để chấp nhận.

Về dân sự: Tại Cơ quan điều tra, giữa chị T và chị L có thỏa thuận: Công ty X chịu trách nhiệm hoàn toàn về số tài sản bị cáo D chiếm đoạt, Công ty có trách nhiệm hoàn trả lại số tiền chị L đã thanh toán số hàng trên. Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an quận Long Biên đã ra Quyết định xử lý vật chứng trao trả cho Công ty X gồm: 10kg túi zipper 40x60 khóa nhựa (25c/kg); 30kg túi zipper 35x45 khóa nhựa mờ; 30kg túi zipper 30x40 khóa nhựa mờ (71c/kg); 5,4kg túi PE niêm phong 38x52+5 (2.31kg/100c); 7,4kg túi PE niêm phong 28x37+5 (1.9kg/100T); 02kg túi PA 18x25; 01kg túi PA 25x35; 01kg túi zipper 2. Chị T(đại diện theo ủy quyền của Công ty) đã nhận lại tài sản, không yêu cầu gì về dân sự và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Nguyễn Xuân D.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave BKS 18X1-0856 tạm giữ của Nguyễn Xuân D, số khung: 024155, số máy: 0028527, kết luận giám định là số nguyên thủy. Đăng ký xe mang tên Trần Phi A (Sinh năm: 1954, HKTT: X, Y, Z). Ông Phi A khai nguồn gốc chiếc xe trên là của ông mua và đăng ký BKS 18X1- 0856 vào tháng 8/2009 sau đó ông giao cho con trai là Trần Phi L sử dụng. Quá trình sử dụng anh L bị mất chiếc xe trên tại khu vực tòa nhà CT2X2 Bắc Linh Đàm, phường Hoàng Liệt, Hoàng Mai, Hà Nội vào tháng 11/2020 còn đăng ký xe anh L vẫn giữ nhưng do bận công việc nên anh L không đến Cơ quan công an trình báo. D khai chiếc xe trên D mua của một người đàn ông không quen biết vào khoảng đầu năm 2021 với giá 5.000.000 đồng và sử dụng đến ngày phạm tội. D không biết chiếc xe trên là tài sản trộm cắp. Cơ quan CSĐT-Công an quận Long Biên đã ra Quyết định tách tài liệu cùng vật chứng để tiếp tục điều tra làm rõ.

Đối với chiếc điện thoại di động Iphone SE màu trắng và chiếc điện thoại Iphone 11 màu đen đều là tài sản của D dùng để liên lạc. Chuyển Tòa án xem xét, xử lý.

Tại Bản cáo trạng số 35/CT-VKS-LB ngày 15/3/2022, Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên đã truy tố Nguyễn Xuân D về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình theo đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát quận Long Biên giữ quyền công tố tại phiên tòa luận tội và tranh luận: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm vấn công khai tại phiên tòa, thấy rằng: Hành vi của bị cáo Nguyễn Xuân D đã đủ yếu tố cấu thành tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo là lao động chính trong gia đình (có xác nhận của chính quyền địa phương), bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 6135/QĐ-XPVPHC ngày 03/11/2021 của Ủy ban nhân dân huyện Chương Mỹ, D bị xử phạt hành chính về hành vi kinh doanh dịch thuộc ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện mà không có giấy phép kinh doanh (kinh doanh dịch vụ cầm đồ) (đã nộp phạt ngày 04/4/2022) là hành vi vi phạm pháp luật hành chính xảy ra sau khi bị cáo thực hiện hành vi tội phạm.

Xét thấy bị cáo được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân D mức án từ 08 đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 16 đến 24 tháng.

Về dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản, không yêu cầu gì về dân sự và đề nghị giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động Iphone SE màu trắng vì có liên quan đến hành vi tội phạm.

- Trả lại bị cáo 01 điện thoại Iphone 11 màu đen do không liên quan đến tội phạm.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave BKS 18X1-0856, số khung:

024155, số máy: 0028527, kết luận giám định là số nguyên thủy tạm giữ của Nguyễn Xuân D: Cơ quan CSĐT-Công an quận Long Biên đã ra Quyết tách tài liệu cùng vật chứng để tiếp tục điều tra làm rõ là có căn cứ.

Nói lời sau cùng, bị cáo nhận thức hành vi phạm tội của mình là sai, vi phạm pháp luật, mong Hội đồng xét xử cho bị cáo được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra-Công an quận Long Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại đã khai báo và xuất trình các tài liệu chứng cứ phù hợp với quy định của pháp luật và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Xét lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản tạm giữ đồ vật tài liệu, lời khai của bị hại cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Ngày 16/9/2021 Nguyễn Xuân D là người được thuê vận chuyển túi nilong zipper từ số 461 phố Nguyễn Văn Cừ, phường Gia Thụy, Long Biên, Hà Nội đến đường Trần Đăng Ninh kéo dài, Phường Phú La, Hà Đông, Hà Nội. Sau khi nhận được hàng D có hành vi gian dối chiếm đoạt số hàng được thuê vận chuyển trị giá 5.673.000 đồng của Công ty X.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã cố ý xâm phạm đã cố ý xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được Bộ luật Hình sự bảo vệ. Bị cáo đã đủ tuổi thành niên, có đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi nên phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi gây nguy hiểm cho xã hội do mình gây ra.

Về tính tiết giảm nhẹ: bị cáo phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo là lao động chính trong gia đình (có xác nhận của chính quyền địa phương), bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên Hội đồng xét xử cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, địa phương nơi cư trú của bị cáo cung cấp cho Tòa án Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 6135/QĐ-XPVPHC ngày 03/11/2021 của Ủy ban nhân dân huyện Chương Mỹ: Nguyễn Xuân D bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi kinh doanh dịch thuộc ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện mà không có giấy phép kinh doanh (kinh doanh dịch vụ cầm đồ) (D đã nộp phạt ngày 04/4/2022) - đây là hành vi vi phạm hành chính xảy ra sau khi bị cáo thực hiện hành vi phạm tội.

Cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện, xét bị cáo được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tài sản chiếm đoạt không lớn đã được trả cho người bị hại (bị hại cũng có đơn xin giảm nhẹ hình sự cho bị cáo), xét bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, Hội đồng xét xử xem xét mở lượng khoan hồng để bị cáo được cải tạo bên ngoài xã hội, cũng có tác dụng giáo dục bị cáo nói riêng và công tác phòng ngừa tội phạm nói chung.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[3] Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động Iphone SE màu trắng vì có liên quan đến hành vi tội phạm.

- Trả lại bị cáo 01 điện thoại Iphone 11 màu đen do không liên quan đến tội phạm.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave BKS 18X1-0856, số khung: 024155, số máy: 0028527, kết luận giám định là số nguyên thủy tạm giữ của Nguyễn Xuân D: Cơ quan CSĐT-Công an quận Long Biên đã ra Quyết tách tài liệu cùng vật chứng để tiếp tục điều tra làm rõ là có căn cứ.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Long Biên đề nghị về hình phạt chính, không áp dụng hình phạt bổ sung, xử lý vật chứng là có căn cứ và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

[4] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[5] Bị cáo và bị hại được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Xuân D phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”

1. Về hình phạt: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Xuân D 08 (tám) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 16 tháng tính từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo Nguyễn Xuân D cho Uỷ ban nhân dân xã Lam Điền, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội để giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015.

- Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động Iphone SE màu trắng.

- Trả lại bị cáo 01 điện thoại Iphone 11 màu đen.

(Tất cả hiện đang lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự quận Long Biên theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 16/3/2022).

3. Án phí : Áp dụng khoản 1 Điều 135; Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm

4. Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Án xử công khai sơ thẩm. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hợp lệ hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

122
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 143/2022/HS-ST

Số hiệu:143/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Long Biên - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về