Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 14/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG KHƯƠNG - TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 14/2022/HS-ST NGÀY 20/09/2022 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 09/2022/TLST-HS, ngày 30 tháng 8 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2022/QĐXXST-HS, ngày 09 tháng 9 năm 2022, đối với bị cáo:

Kim Đình K; (Tên gọi khác: Không); Giới tính: Nam; Sinh ngày 12 tháng 3 năm 2001 tại xã BL, huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai. Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Giáo dục phổ thông: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Nơi ĐKHKTT: Thôn NP, xã BL, huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai. Con ông Kim Đình K1, sinh năm 1971 và bà Vương Tuyết M, sinh năm 1973. Bị cáo chưa có vợ, chưa có con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Tốt.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 26/7/2022 đến ngày 04/8/2022 được thay đổi biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt.

- Bị hại: Anh Lục Anh Đ; sinh năm 1998; Địa chỉ: Thôn NP, xã BL, huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai, vắng mặt (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

- Ngưởi có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Anh Vũ Văn C, sinh năm 1990; Địa chỉ: Tổ 17, phường LC, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai, vắng mặt (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

Anh Cư Seo C1, sinh năm 1995; Địa chỉ: Thôn PL 1, xã PL, huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai, vắng mặt (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

- Người làm chứng: Chị Nông Thị Hoa S; sinh năm 2003; Địa chỉ: Thôn NH, xã LV, huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 09 giờ ngày 29/3/2022, Kim Đình K nhắn tin hỏi mượn xe máy của anh Lục Anh Đ – sinh năm 1998 nhà ở thôn Na Pao, xã Bản Lầu, huyện Mường Khương mục đích để đưa chị Nông Thị Hoa S (là bạn gái K) đi ra Lào Cai. Anh Đ đồng ý và đưa cho K mượn chiếc xe máy nhãn hiệu YAMAHA loại EXCITER màu đen - đỏ, biển kiểm soát 24B2 -568.64 kèm theo đăng ký và bảo hiểm xe. Trên đường đi, K đã nảy sinh ý định mang chiếc xe mượn của anh Đ đi cầm cố lấy tiền chi tiêu cá nhân. K chở S đến cửa hàng xe máy Vũ C, địa chỉ tổ 17, phường Lào Cai, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai, K hỏi anh Vũ Văn C (chủ cửa hàng xe máy Vũ C) để cầm cố xe máy, nhưng anh C trả lời cửa hàng chỉ mua, bán xe máy chứ không cầm cố. K suy nghĩ một lúc rồi đồng ý bán xe máy trên với giá 24.000.000 đồng cho anh C. Anh C hỏi về nguồn gốc xe, K trả lời là xe máy do K mua lại của anh Lục Anh Đ là người cùng thôn nên không sang tên đổi chủ. Do tin tưởng nên anh C đã đồng ý mua lại chiếc xe máy trên của K với giá 24.000.000 đồng. Do K không mang theo các giấy tờ cá nhân, nên K đã hỏi mượn chứng minh nhân dân của chị S để thực hiện giao dịch mua bán xe máy với anh C. Sau khi hai bên làm giấy mua, bán xe xong chị S đã ký vào giấy mua, bán xe. K hẹn với anh C khoảng 10 ngày sau K sẽ quay lại mua lại chiếc xe này, anh C đồng ý. Sau đó anh C đưa cho K một tờ mẫu giấy mua bán xe đã điền đầy đủ thông tin của anh Lục Anh Đ bảo K về xin chữ ký của anh Đ là chủ xe để tiện cho việc bán xe sau này khi sang tên đổi chủ giấy tờ xe cho người khác. K về phòng trọ của S và tự ký tên Lục Anh Đ vào phần bên bán xe và đưa giấy tờ đó cho anh C. Sau khi đã chi tiêu hết số tiền bán xe, K gọi điện cho anh C bảo không mua lại xe nữa, anh C đồng ý trả thêm cho K 3.000.000 đồng qua số tài khoản của K.

Đến ngày 20/6/2022, anh Cư Seo C1 - sinh năm 1995, trú tại thôn Pha Long 1, xã Pha Long, huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai có đến cửa hàng xe máy Vũ C và chọn mua chiếc xe máy nhãn hiệu YAMAHA loại Exciter màu đen - đỏ BKS:

24B2-568.64, với giá là 33.500.000 đồng và bảo anh Vũ Văn C làm thủ tục sang tên chính chủ cho anh C1. Anh C1 trả trước số tiền 30.500.000 đồng và hẹn khi nào làm giấy tờ chuyển nhượng xong thì trả nốt số tiền 3.000.000 đồng. Anh C thuê chị Hà Thị N; địa chỉ: Tổ 17, phường Kim Tân, thành phố Lào Cai làm giúp thủ tục sang tên cho anh C1 với giá là 1.500.000 đồng. Khi đi đến Uỷ ban nhân dân phường Bắc Lệnh, thành phố Lào Cai không có người tiếp nhận hồ sơ nên chị N đã tự ý ký tên Hoàng Thị V vào mục người tiếp nhận hồ sơ và đến gặp, nhờ ông Phạm Quốc N1 – Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân phường Bắc Lệnh, thành phố Lào Cai ký chứng thực giấy mua, bán xe máy giữa anh Lục Anh Đ và anh Cư Seo C1. Sau khi chứng thực xong, chị N đã mang hồ sơ sang tên cho anh Cư Seo C1 nộp lên Đội cảnh sát giao thông Công an huyện Mường Khương để hoàn thiện thủ tục sang tên giấy đăng ký xe máy cho anh C1. Một thời gian sau đã làm xong thủ tục chị N đưa giấy tờ xe trên cho anh Vũ Văn C. Đến ngày 19/7/2022 anh Lục Anh Đ đã đến trụ sở Công an xã Bản Lầu, huyện Mường Khương trình báo về việc Kim Đình K đã có hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của anh. Tại Cơ quan điều tra bị cáo Kim Đình K đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 07/TBKL-HĐĐG ngày 26/7/2022, của Hội đồng định giá tài sản huyện Mường Khương kết luận: 01 (một) chiếc xe máy nhãn hiệu YAMAHA loại EXCITER màu đen - đỏ; Số khung RLCUG1010KY103032, số máy G3D4E869459, biển kiểm soát 24B2-568.64, xe cũ đã qua sử dụng có giá trị còn lại là: 26.200.000 đồng (Hai mươi sáu triệu hai trăm nghìn đồng).

Tại bản cáo trạng số: 09/CT-VKS, ngày 30/8/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai truy tố bị cáo Kim Đình K về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự.

* Tại phiên toà :

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Kim Đình K phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 175; điểm b, h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Kim Đình K từ 09 tháng đến 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 tháng đến 24 tháng. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; tuyên án phí, quyền kháng cáo đối với bị cáo.

Tại phiên tòa bị cáo Kim Đình K đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên toà bị cáo Kim Đình K đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Khương đã nêu ở trên. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, có đủ cơ sở kết luận: Lợi dụng mối quan hệ anh em họ hàng và sự tin tưởng của anh Lục Anh Đ, ngày 29/3/2022, Kim Đình K đã mượn của anh Đ chiếc xe máy nhãn hiệu YAMAHA loại EXCITER màu đen - đỏ; biển kiểm soát 24B2-568.64, (xe cũ đã qua sử dụng, theo kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản huyện Mường Khương chiếc xe có giá trị còn lại là: 26.200.000 đồng), mục đích đưa bạn gái ra thành phố Lào Cai, sau đó mang bán cho anh Vũ Văn C là chủ cửa hàng xe máy Vũ C với giá 27.000.000 đồng, toàn bộ số tiền bán xe bị cáo đã tiêu sài cá nhân hết. Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai truy tố bị cáo Kim Đình K về tội "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản" theo điểm b khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ việc chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng vì muốn có tiền để chi tiêu cá nhân nên bị cáo đã phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự tại địa phương. Vì vậy cần phải có mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo.

[3]. Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo là thanh niên tuổi đời còn trẻ, có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Trong quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình. Tài sản bị cáo chiếm đoạt đã được thu hồi trả cho bị hại, bị hại có yêu cầu xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Sau khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo đã bồi thường toàn bộ thiệt hại cho anh Vũ Văn C là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Bị cáo có thời gian phục vụ trong quân đội, được Bộ chỉ huy Bộ đội biên phòng tỉnh Lào Cai tặng Giấy khen. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, nên cần giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, cũng như nhân thân của bị cáo thấy rằng: Bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng để cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giám sát, giáo dục. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, không có tình tiết tăng nặng. Xét thấy không cần thiết phải bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù, bị cáo cũng có khả năng tự cải tạo để trở thành công dân lương thiện. Vì vậy áp dụng hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo đối với bị cáo và giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã Bản Lầu, huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách là phù hợp.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4]. Về trách nhiệm dân sự: Ngày 25/8/2022, Cơ quan điều tra đã trả cho chủ sở hữu là anh Lục Anh Đ 01 xe máy nhãn hiệu YAMAHA EXCITER màu đen đỏ biển kiểm soát 24B2-568.64; số khung RLCUG1010KY103032, số máy G3D4E869459. Riêng đối với giấy chứng nhận đăng ký xe và bảo hiểm xe mô tô, xe máy của chiếc xe máy nhãn hiệu YAMAHA EXCITER màu đen đỏ biển kiểm soát 24B2-568.64, anh Đ có ý kiến anh Đ sẽ tự liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để xin cấp lại, anh không yêu cầu bị cáo phải bồi thường cho anh nên hội đồng xét xử không giải quyết.

Đối với anh Vũ Văn C là người đã mua chiếc xe máy của bị cáo với giá 27.000.000 đồng. Ngày 12/8/2022, bị cáo Kim Đình K đã bồi thường cho anh C 27.000.000 đồng, anh C không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thêm nên hội đồng xét xử không giải quyết lại.

Đối với anh Cư Seo C1 là người mua lại chiếc xe máy nhãn hiệu YAMAHA EXCITER màu đen đỏ, biển kiểm soát 24B2-568.64 từ anh Vũ Văn C với số tiền 33.500.000 đồng, anh C1 đã trả cho anh C số tiền 30.500.000 đồng. Sau khi hành vi phạm tội của bị cáo Kim Đình K bị phát hiện, anh C1 đã tự nguyện giao nộp chiếc xe máy đó cho cơ quan điều tra và ngày 167/8/2022 anh C đã trả lại số tiền 30.500.000 đồng cho anh C1. Đến nay anh C1 cũng không có yêu cầu gì về dân sự nên Hội đồng xét xử không giải quyết lại.

[5]. Về vật chứng của vụ án: Cơ quan điều tra đã tạm giữ 01 xe máy nhãn hiệu YAMAHA loại Exciter màu đen đỏ BKS: 24B2-568.64 số khung RLCUG1010KY103032, số máy G3D4E-869459, đã trả lại cho anh Lục Anh Đ theo biên bản ngày 25/8/2022, xét thấy là phù hợp. 01 giấy mua, bán, cho tặng xe giữa Lục Anh Đ và Cư Seo C1 được công chứng tại UBND phường Bắc Lệnh lập ngày 22/6/2022, cơ quan điều tra đã trả lại cho Đội cảnh sát giao thông Công an huyện Mường Khương để lưu trữ hồ sơ, xét thấy là phù hợp.

[6]. Về các vấn đề khác:

Trong vụ án này còn có anh Vũ Văn C là người đã mua chiếc xe máy của bị cáo, tuy nhiên anh C không biết xe máy của Kim Đình K mang bán là xe do phạm tội mà có. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mường Khương không đề cập xử lý đối với anh C về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội là có cơ sở.

Đối với chị Nông Thị Hoa S là người ký tên vào giấy tờ bán xe, tuy nhiên, chị S không biết việc bị cáo chiếm đoạt chiếc xe của anh Đ, chị S và bị cáo cũng không có sự bàn bạc, thỏa thuận với nhau khi bán xe. Vì vậy không có đủ căn cứ xác định chị S đồng phạm với Kim Đình K, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mường Khương không đề cập xử lý đối với chị S là phù hợp.

Đối với ông Phạm Quốc N1 và bà Hà Thị N có dấu hiệu xâm phạm vào lĩnh vực công chứng, chứng thực. Cơ quan điều tra đã tiến hành làm việc với Ủy ban nhân dân phường Bắc Lệnh, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai được biết hiện tại ông Phạm Quốc N1 đang điều trị tai biến tại Bệnh viện phục hồi chức năng tỉnh Lào Cai, không đủ điều kiện về sức khoẻ và nhận thức để làm việc với cơ quan điều tra. Do thời hạn điều tra đã hết, cơ quan điều tra đã tách ra khi nào ông N1 có đủ điều kiện về sức khỏe sẽ tiến hành điều tra làm rõ hành vi vi phạm pháp luật của N1 và bà N để xử lý theo quy định.

[7] Xét quan điểm của Kiểm sát viên: Tại phiên tòa Kiểm sát viên đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo là phù hợp.

[8]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 175, điểm b, h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 65 của Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố bị cáo Kim Đình K phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Phạt bị cáo Kim Đình K 09 (Chín) tháng tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 18 (Mười tám) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Kim Đình K cho Ủy ban nhân dân xã Bản Lầu, huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp bị cáo được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú, làm việc thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật Thi hành án hình sự.

Hậu quả của việc vi phạm nghĩa vụ trong thời gian thử thách của án treo: “Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo”.

2. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sựNghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Buộc bị cáo Kim Đình K phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm .

3. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

172
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 14/2022/HS-ST

Số hiệu:14/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường Khương - Lào Cai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về