Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 125/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 125/2022/HS-PT NGÀY 18/03/2022 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 18 tháng 3 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 367/2021/TLPT-HS ngày 14 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo Nguyễn Thanh N do có của bị hại Công ty TNHH Nhựa Đạt H và kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 50/2021/HS-ST ngày 12 tháng 5 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương.

- Bị cáo bị kháng cáo, kháng nghị: Nguyễn Thanh N, sinh năm 1968, tại Thành phố Hồ Chí Minh; hộ khẩu thường trú: Số 144/10A, đường Đ, Phường 2x, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: lái xe; trình độ học vấn: 7/12; giới tính: nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn X (đã chết) và bà Lê Ngọc Q, sinh năm 1933; bị cáo có vợ tên Phương Thị Mai L, sinh năm 1972 và 02 người con (lớn sinh năm 1995 và nhỏ sinh năm 1997); tiền án: không, tiền sự: không; nhân thân: không; ngày 04/10/2019, bị bắt tạm giam cho đến nay (có mặt).

- Bị cáo bị kháng nghị về phần dân sự: Lương Bội H, sinh năm 1979, tại Thành phố Hồ Chí Minh; hộ khẩu thường trú: Số 157, đường B, Phường X, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: Đường 1A, tổ X, ấp 1B, xã V, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh, (vắng mặt, đang chấp hành án).

Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thanh N: Luật sư Huỳnh Khắc T, Văn phòng Luật sư Nguyễn Quang Vũ thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

Người bào chữa cho bị cáo H: Luật sư Nguyễn Quang Tr, thuộc Công ty Luật TNHH TLT, Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có đơn đề nghị xử vắng mặt và gửi bài bào chữa).

- Bị hại: Công ty TNHH Nhựa Đạt H; địa chỉ: Lô C1- CN, đường NA4, khu công nghiệp M, khu phố X, phường M, thị xã B, tỉnh Bình Dương. Đại diện hợp pháp của bị hại: Bà Nguyễn Thị Kim H, sinh năm 1964; chức vụ: Tổng giám đốc Công ty TNHH Nhựa Đạt H.

Đại diện theo ủy quyền:

1. Ông Trần Uy T, sinh năm: 1984; địa chỉ: Số 72, đường T, Phường 1X, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

2. Ông Đặng Hoàng Tuấn V, sinh năm 1989; địa chỉ: Số 35/15, đường số 2X, phường B, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại: Luật sư Hồ Lê Minh D, Công ty Luật Hợp danh Minh Duy- Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Bà Nguyễn Thị Ngọc V, sinh năm 1993; nơi cư trú: ấp Đ, xã Đ, huyện D, tỉnh Bình Dương (xin vắng mặt).

2. Ông Nguyễn Đình H, sinh năm 1975; nơi cư trú: Số 64, đường NB9, tổ 13, khu phố X, phường M, thị xã B, tỉnh Bình Dương (xin vắng mặt).

3. Bà Phan Thị Hồng S, sinh năm 1983; nơi cư trú: Số 35, đường NB5, khu phố X, phường M, thị xã B, tỉnh Bình Dương (xin vắng mặt).

4. Ông Võ Văn V, sinh năm 1982; nơi cư trú: Số 22, đường số X, khu dân cư Đ, phường Đ, thành phố D, tỉnh Bình Dương (vắng mặt).

5. Bà Trần Thị Minh K, sinh năm 1985; nơi cư trú: Số 73/36, đường H, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương (vắng mặt).

6. Ông Đoàn Công D, sinh năm 1985; nơi cư trú: ấp B, xã P, huyện P, tỉnh Bình Dương (vắng mặt).

7. Bà Phương Thị Mai L, sinh năm 1972; nơi cư trú: Số 157/13/33, đường D2, Phường 2x, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

8. Bà Phương Kim Ph, sinh năm 1968; nơi cư trú: Số 49, đường H, khu phố X, phường H, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

9. Công ty Cổ phần Đồng Âu L; địa chỉ: Thôn Q, Xã Q, Huyện L, Tỉnh Bắc Ninh. Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Bá N, sinh năm 1957; địa chỉ: Số 122/32AL2, đường A, Phường X, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

10. Công ty TNHH Sản xuất Thương mại Dịch vụ Đức Thành Đ; địa chỉ: Số 639/73/4/3, Hương Lộ 2, khu phố 1X, phường B, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh. Đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Thị Lệ C – Giám đốc công ty (có mặt).

- Người kháng cáo: Công ty TNHH Nhựa Đạt H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào năm 2010 cho đến nay, Công ty Cổ phần Đồng Âu L, địa chỉ: thôn Q, xã Q, huyện L, tỉnh Bắc Ninh (Văn phòng đại diện số 2 tại Số 1X, Đường 4X, Phường 1X, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh) chuyên cung cấp sản phẩm phụ kiện nhựa gắn ren bằng đồng thau cho Công ty TNHH Nhựa Đạt H (địa chỉ: lô C1-CN đường NA4, KCN M, khu phố X, phường M, thị xã B, tỉnh Bình Dương) do bà Nguyễn Thị Kim H, sinh năm 1964 làm chức vụ Tổng Giám đốc.

Đến tháng 10/2011, Công ty TNHH Nhựa Đạt H (Công ty Nhựa Đạt H) giao cho Lương Bội H làm nhân viên thủ kho phụ kiện, phụ trách đề xuất yêu cầu và trực tiếp kiểm đếm, lập phiếu nhập kho hàng ren đồng thau từng đợt giao hàng, nhận hóa đơn VAT theo số lượng đơn đặt hàng của Công ty TNHH Nhựa Đạt H. Trong thời gian phụ trách công việc, H quen biết với Nguyễn Thanh N là tài xế chở hàng thuê cho Công ty Cổ phần Đồng Âu L.

Do cần tiền tiêu xài cá nhân nên trong thời gian từ năm 2015 cho đến tháng 03/2019, H rủ N cùng tham gia chiếm đoạt hàng ren đồng thau của Công ty Nhựa Đạt H. Với cách thức là khi có đơn đặt mua hàng của Công ty Cổ phần Đồng Âu L, N điều khiển xe ô tô tải biển số 51C – 015.88 chở hàng hóa là ren đồng thau từ Công ty Đồng Âu L về giao cho Công ty Nhựa Đạt H và H là người trực tiếp ký nhận.

Trên đường vận chuyển hàng về Công ty Nhựa Đạt H, H sẽ liên hệ và nói N lấy bớt thùng hàng ren đồng thau để bán theo yêu cầu của H. N sẽ chủ động liên hệ cho các tài xế xe tải khác (không rõ lai lịch) để bán. Mỗi lần bán được khoảng từ 20 thùng đến 40 thùng ren đồng thau các loại, mỗi thùng có từ 500 cái (sản phẩm) đến 1000 cái (01 thùng đồng thau ren ngoài 21 gồm 500 sản phẩm, trọng lượng từ 19 đến 19,3kg; 01 thùng đồng thau ren trong 21 gồm 1000 sản phẩm, trọng lượng từ 14 đến 14,3kg; 01 thùng đồng thau ren ngoài 27 gồm 500 sản phẩm, trọng lượng từ 26 đến 26,5kg; 01 thùng đồng thau ren trong 27 gồm 1000 sản phẩm, trọng lượng từ 30 đến 30,5kg), mỗi tháng lấy từ 01 đến 02 lần. Địa điểm bán tại các khu vực gần cầu vượt An Sương, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh; khu vực gần cổng chào thuộc phường Vĩnh Phú, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương, bán phế liệu với giá từ 67.000 đồng/kg đến 69.000 đồng/kg. Số hàng ren đồng thau còn lại N chở về giao cho Công ty Nhựa Đạt H. Lúc này H là người trực tiếp ký nhận hàng về kho phụ kiện và ký nhận đủ số lượng như trên Phiếu nhập kho, nhận hóa đơn Giá trị gia tăng của Công ty cổ phần Đồng Âu L xuất tương ứng với số lượng hàng hóa giao nhận. Số tiền bán được, N đem về giao cho H, N được H chia tiền 10% trên tổng số tiền đã nhận. Ngoài ra, H còn đưa thêm cho N một khoảng tiền xăng đi lại trên mỗi chuyến từ 700.000 đồng đến 3.000.000 đồng tùy theo số lượng hàng chiếm đoạt. Theo lời khai nhận của H và N thì mỗi tháng bán được từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng. Tổng số tiền N được chia là trên 500.000.000 đồng (năm trăm triệu đồng). H được chia trên 3.000.000.000 đồng (ba tỷ đồng).

Khi có lệnh sản xuất của Phòng Kế hoạch thì Nguyễn Đình H là Quản đốc Xưởng phụ tùng cao cấp của công ty nhập lên máy tính và yêu cầu thư ký Nguyễn Thị Ngọc V làm giấy đề xuất nguyên liệu theo số lượng ghi trong lệnh sản xuất đề ra, rồi ký tên vào giấy đề xuất. Sau đó đưa giấy đề xuất cho nhân viên Đoàn Công D sang kho gặp Lương Bội H làm Thủ kho để lấy ren đồng thau. Lúc này H ghi đúng số lượng hàng hóa Xưởng sản xuất thực nhận trên các liên trắng, liên vàng, liên xanh của Lệnh xuất kho. Đoàn Công D kiểm tra số lượng ren đồng thau và ký nhận vào lệnh xuất kho nội bộ (liên màu xanh) rồi chuyển ren đồng thau về xưởng. Nguyễn Thị Ngọc V kiểm tra lại rồi đưa vào sản xuất. Tuy nhiên, sau khi giao liên xanh cho Nguyễn Đình H, H đã tự chỉnh sửa, ghi tăng thêm số lượng trên liên trắng được giữ lại kho do H quản lý rồi giao cho Phan Thị Hồng S là Phó phòng Kế toán, Trần Thị Minh K là Kế toán tổng hợp kiểm tra số liệu hạch toán trên phần mềm, báo cáo kết quả kinh doanh cho Ban Giám đốc công ty biết về doanh thu, lỗ, lãi của Công ty.

Đến ngày 25/3/2019, bộ phận kế toán tổng hợp sổ sách, chứng từ, số liệu thì phát hiện có sự thất thoát số lượng ren đồng thau được chỉnh sửa là 124 Lệnh xuất kho thể hiện trên liên trắng trong thời gian từ năm 2015 đến tháng 3/2019 nên báo cáo Ban giám đốc Công ty làm đơn trình báo đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bình Dương.

Căn cứ Bản kết luận giám định số: 232/GĐ-PC09 ngày 05/8/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương và Kết luận giám định số: 1889/C09B ngày 15/5/2020 của Phân viện Khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận: Chữ ký không ghi họ tên dưới các mục: “Người lập phiếu” và “Thủ kho” là do Lương Bội H ký ra; Có dấu vết sửa chữa chữ viết số dưới mục “Số lượng thực xuất” và các “Lệnh xuất kho”.

Căn cứ Bản Kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự tỉnh Bình Dương ngày 26/9/2019, kết luận: Ren ngoài thau 21 gồm 2.232.440 cái; Ren trong thau 21 gồm 1.775.660 cái; Ren ngoài thau 27 gồm 406.830 cái; Ren trong thau 27 gồm 301.000 cái. Tổng 4.716.430 cái với tổng giá trị tài sản bị thiệt hại là 24.323.239.000 đồng (hai mươi bốn tỷ ba trăm hai mươi ba triệu hai trăm ba mươi chín nghìn đồng).

Đối với những người có liên quan: Bà Nguyễn Thị Ngọc V, ông Nguyễn Đình H, bà Phan Thị Hồng S, ông Võ Văn V (Trưởng phòng kế toán), bà Trần Thị Minh K, ông Đoàn Công D không biết việc Lương Bội H cùng đồng phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của Công ty TNHH Nhựa Đạt H nên không căn cứ để xử lý.

Đối với những người mua hàng ren đồng thau do bị cáo N bán hiện chưa xác định được nhân thân lai lịch, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bình Dương tiếp tục xác minh xử lý sau.

* Đối với phương tiện liên quan trong vụ án:

- Xe ô tô tải biển số 51C – 015.88, loại xe Kia, màu sơn xanh, tải trọng 1.250kg, số khung RNHKCB27T5C 002043, số máy JT 545428 do Nguyễn Thanh N điều khiển làm phương tiện phạm tội là tài sản chung của N và vợ là bà Phương Thị Mai L. Ngày 21/02/2020, bà Phương Thị Mai L đã bán xe này cho bà Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1975, nơi cư trú: Số 244/35, đường P, Phường 1X, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh với giá 115.000.000 đồng. Với số tiền 115.000.000 đồng bà Phương Thị Mai L đồng ý giao nộp lại số tiền bán chiếc xe trên theo yêu cầu của cơ quan chức năng.

- Vật chứng thu giữ: 01 xe mô tô biển số 54X9 – 6304, nhãn hiệu Honda, màu sơn: đỏ - xám, số khung 49Y030055, số máy 43E 0547146 (kèm theo giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy) do bà Phương Kim Ph làm chủ sở hữu. Bà Phương Kim Ph giao xe này cho N mượn để làm phương tiện đi lại.

Về trách nhiệm dân sự, bà Nguyễn Thị Kim H yêu cầu các bị cáo phải bồi thường thiệt hại.

Tại Cáo trạng số 35/CT-VKS.P1 ngày 30/9/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Lương Bội H và Nguyễn Thanh N về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoan 4 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 50/2021/HS-ST ngày 12 tháng 5 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương quyết định:

Căn cứ các Điều 298, 299, 326, 327, 329, 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Tuyên bố bị cáo Lương Bội H, Nguyễn Thanh N phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng khoản 4 Điều 175; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt:

Bị cáo Lương Bội H 17 (mười bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 24/9/2019.

Áp dụng khoản 4 Điều 175; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt:

Bị cáo Nguyễn Thanh N 12 (mười hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 04/10/2019.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, về biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 24/5/2021, Công ty TNHH Nhựa Đạt H kháng cáo đề nghị Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh sửa bản án sơ thẩm theo hướng: Tăng hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Thanh N; xác định Công ty Cổ phần Đồng Âu L là đồng bị hại; Buộc Công ty Cổ phần Đồng Âu L có nghĩa vụ gánh chịu 50% giá trị thiệt hại là 12.161.619.500 đồng do người của công ty N gây ra trong tổng giá trị thiệt hại 24.323.239.000 đồng, số tiền này công ty Âu L có nghĩa vụ thanh toán cho Công ty TNHH Nhựa Đạt H. Kiến nghị tiếp tục điều tra để xác định đồng phạm, người tiêu thụ tài sản do phạm tội mà có.

Ngày 09/6/2021 Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh kháng nghị phúc thẩm số 44/QĐ-VC3-V1 ngày 9/6/2021, kháng nghị một phần bản án hình sự sơ thẩm số 50/2021/HS-ST ngày 12 tháng 5 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương. Đề nghị Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm hủy một phần bản án sơ thẩm nêu trên để xét xử lại về trách nhiệm dân sự và án phí dân sự sơ thẩm cho mỗi bị cáo theo đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Công ty TNHH Nhựa Đạt H bổ sung thêm yêu cầu kháng cáo; Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Công ty Đạt H yêu cầu xem xét chuyển tội danh đối với 02 bị cáo H, N từ tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” sang tội “Trộm cấp tài sản”; đồng thời xác định bị hại trong vụ án là Công ty Đồng Âu L; Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy toàn bộ bản án sơ thẩm để truy tố, xét xử lại.

- Công ty Đồng Âu L đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.

- Luật sư bào chữa cho bị cáo N đồng ý quan điểm đề nghị của Viện kiểm sát.

- Luật sư bào chữa cho bị cáo H có gửi bài bào chữa đề nghị hủy án sơ thẩm về trách nhiệm bồi thường và án phí dân sự.

- Đại diện Viện kiểm sát cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm về xử lý vụ án: Hội đồng xét xử tiến hành đúng quy định pháp luật tố tụng, những người tham gia tố tụng chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ của mình; Về nội dung: giữ nguyên quan điểm kháng nghị, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 355 và Điều 358 Bộ luật Tố tụng hình sự: hủy bản án hình sự sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án để truy tố, xét xử lại theo quy định chung. Lý do: cần làm rõ hành vi phạm tội, thời điểm phạm tội của các bị cáo để xem xét lại tội danh cho đúng; xác định cụ thể mức bồi thường cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, sau khi nghe quan điểm của các Luật sư, đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định như sau:

[1]. Thiếu sót về tố tụng:

Quyết định phân công giải quyết vụ án của Chánh án; Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 124/2020/QĐXXST-HS ngày 11/11/2020; Quyết định hoãn phiên tòa số 189/2020/HSST-QĐ ngày 24/11/2020 và Biên bản phiên tòa hình sự ngày 24/11/2020 thể hiện thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm 05 người (02 Thẩm phán và 03 Hội thẩm, do xác định vụ án có tính chất phức tạp). Tuy nhiên, đến phiên tòa ngày 05/05/2021 thì xét xử chỉ với Hội đồng 03 người (01 Thẩm phán, 02 Hội thẩm) khác so với Quyết định phân công của Chánh án và Quyết định đưa vụ án ra xét xử mà không nêu rõ lý do vì sao; Lẽ ra, trong trường hợp có thay đổi thì phải ra Quyết định đưa vụ án xét xử lại cho đúng thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm và thể hiện rõ lý do.

[2]. Về hành vi bị truy tố:

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Thanh N khai nhận: Bị cáo Lương Bội H là nhân viên thủ kho phụ kiện của Công ty TNHH Nhựa Đạt H; bị cáo H quen biết với bị cáo Nguyễn Thanh N là tài xế chở hàng thuê cho Công ty Cổ phần Đồng Âu L (là Công ty chuyên cung cấp sản phẩm phụ kiện nhựa gắn ren bằng đồng thau cho Công ty TNHH Nhựa Đạt H). Do cần tiền tiêu xài cá nhân nên H rủ N cùng tham gia chiếm đoạt hàng ren đồng thau. Với cách thức: là khi có đơn đặt mua hàng của Công ty Cổ phần Đồng Âu L, N điều khiển xe chở hàng hóa là ren đồng thau từ Công ty Đồng Âu L về giao cho Công ty Nhựa Đạt H và H là người trực tiếp ký nhận. Trên đường vận chuyển hàng về Công ty Nhựa Đạt H, H sẽ liên hệ và nói N lấy bớt thùng hàng ren đồng thau để bán theo yêu cầu của H. N sẽ chủ động liên hệ cho các tài xế xe tải khác (không rõ lai lịch) để bán lấy tiền chia. Với thủ đoạn trên, từ năm 2015 cho đến tháng 3/2019, Lương Bội H và Nguyễn Thanh N đã chiếm đoạt số tiền theo định giá là 24.323.239.000 đồng.

[3]. Về Tội danh và xác định tư cách bị hại:

Việc định tội danh có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc xác định sự thật khách quan vụ án; Xác định có tội hay không có tội, phạm tội gì; Có liên quan đến việc xác định tư cách tham gia tố tụng và quyết định hình phạt cho phù hợp với tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội gây ra.

Trong vụ án này, quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay thể hiện: Do cần tiền tiêu xài cá nhân nên bị cáo H rủ bị cáo N cùng tham gia chiếm đoạt hàng ren đồng thau trên đường vận chuyển hàng về Công ty Nhựa Đạt H, N sẽ chủ động và chịu trách nhiệm liên hệ cho các tài xế xe tải khác (không rõ lai lịch) để bán lấy tiền đem về giao cho H, H chia cho N 10% trên tổng giá trị hàng chiếm đoạt.

Như vậy, các bị cáo đã có sự bàn bạc, phân công vai trò và đã có ý thức chiếm đoạt từ trước. Tội phạm hoàn thành khi các bị cáo thực hiện việc lấy hàng ren đồng thau trên đường vận chuyển để bán lấy tiền. Hành vi lấy hàng ren đồng thau trên đường vận chuyển đem bán lấy tiền chia sài cá nhân trước khi giao hàng đến kho là hành vi lén lút đối với chủ sở hữu tài sản (Công ty Đồng Âu L) đã có đủ dấu hiệu của tội “Trộm cấp tài sản”. Còn việc khi bị kiểm tra, bị cáo H đối phó bằng cách chỉnh sửa, ghi tăng thêm số lượng trên liên trắng để hạch toán trên phần mềm báo cáo kết quả kinh doanh là thủ đoạn nhằm che đậy hành vi chiếm đoạt tài sản trước đó, đây không phải là dấu hiệu cấu thành tội phạm.

Tòa sơ thẩm có trả hồ sơ điều tra bổ sung để làm rõ tư cách tham gia tố tụng của Công ty Cổ phần Đồng Âu L và Công ty Nhựa Đạt H ai là bị hại trong vụ án, thì có liên quan đến việc xác định tội danh; Tuy nhiên, cấp sơ thẩm vẫn truy tố, xét xử các bị cáo về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” là chưa chính xác, có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật.

[4]. Về kháng cáo của Công ty Đạt Hòa, thấy rằng:

Theo nội dung Hợp đồng được các bên ký kết: Công ty Cổ phần Đồng Âu L thuê bị cáo Nguyễn Thanh N chở hàng hóa theo chuyến đến Công ty TNHH Nhựa Đạt H. Về nguyên tắc Hợp đồng được các bên thỏa thuận: Địa điểm giao hàng tại kho A (Công ty Đạt H), còn vận chuyển thì bên B (Công ty Âu L) chịu. Như vậy, hàng bị chiếm đoạt trên đường vận chuyển, nên hàng hóa vẫn thuộc quyền quản lý, sở hữu của Công ty Âu L. Cấp sơ thẩm chưa điều tra làm rõ vấn đề này mà xác định bị hại là Công ty Đạt H là chưa đúng với bản chất vụ án. Quan điểm của Luật sư đối với vấn đề này là có cơ sở.

[5]. Về nội dung kháng nghị và quan điểm đề nghị của Viện kiểm sát, thấy rằng:

Xét về vai trò của các bị cáo trong vụ án: Cấp sơ thẩm nhận định các bị cáo phạm tội với tính chất là đồng phạm giản đơn là chưa phù hợp với diễn biến khách quan của vụ án. Quá trình điều tra đã chứng minh được: Các bị cáo đã có phân công vai trò cụ thể, bị cáo H là người khởi sướng, chủ mưu; còn bị cáo N thì được phân công trách nhiệm bán hàng chiếm đoạt được rồi đem tiền về đưa cho bị cáo H, H chia cho N 10% giá trị tài sản chiếm đoạt được và tiền xăng đi lại; tổng số tiền bị cáo N được hưởng lợi là trên 500.000.000 đồng, số tiền bị cáo H hưởng lợi là trên 3 tỷ đồng trong khoản thời gian từ năm 2015 đến tháng 3/2019.

Như vậy, tỷ lệ hưởng lợi được xác định (1/6) bị cáo N 1, bị cáo H 6; Tòa sơ thẩm tuyên buộc các bị cáo cùng liên đới bồi thường mà không xác định mức bồi thường cụ thể cho từng bị cáo là không công bằng và không đúng với Điều 48 của Bộ luật hình sự, Điều 587 của Bộ luật dân sự 2015 và hướng dẫn tại mục I.8 của Công văn 212/TANDTC-PC ngày 13/9/2019 của Tòa án nhân dân tối cao; Điều đó dẫn đến việc tính án phí không phù hợp.

Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo N khai không nhớ bao nhiêu lần thực hiện tội phạm; Quá trình điều tra không làm rõ vấn đề này là thiếu sót. Vì đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự (phạm tội 02 lần trở lên, hay phạm tội có tính chất chuyên nghiệp) có ảnh hưởng đến việc quyết định hình phạt đối với các bị cáo. Vì vậy, quan điểm đề nghị chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh, hủy bản án sơ thẩm là phù hợp.

[6]. Tóm lại:

Từ những phân tích, nhận định trên xét thấy cấp sơ thẩm có thiếu sót về thủ tục tố tụng, chưa điều tra làm rõ tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; xác định chưa đúng tội danh; chưa đúng tư cách người bị hại, xác định trách nhiệm bồi thường chưa đúng đã làm ảnh hưởng lớn đến việc giải quyết khách quan và đúng đắn vụ án; Mặc dù, có thể sửa án sơ thẩm về tội danh, nhưng việc xác định lại tư cách tham gia tố tụng của người bị hại sẽ ảnh hưởng đến quyền kháng cáo của các bên. Do đó cần hủy bản án sơ thẩm để điều tra và giải quyết lại theo đúng quy định của pháp luật.

[7]. Do hủy án nên Công ty Đạt H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vi các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 355, Điều 358 Bộ luật tố tụng hình sự.

Hủy bản án hình sự sơ thẩm số 50/2021/HSST ngày 12/5/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương và chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương điều tra và truy tố lại theo đúng quy định của pháp luật.

3. Về án phí hình sự phúc thẩm: Công ty TNHH Nhựa Đạt H không phải chịu.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

493
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 125/2022/HS-PT

Số hiệu:125/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về