TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẢO LẠC - TỈNH CAO BẰNG
BẢN ÁN 12/2022/HS-ST NGÀY 26/04/2022 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 26 tháng 4 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 10/2022/TLST-HS ngày 18 tháng 3 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2022/QĐXXST- HS ngày 14 tháng 4 năm 2022 đối với:
Bị cáo: Đặng Văn D, sinh ngày 23 tháng 12 năm 1986.
Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Xóm NR, xã CP, huyện BL, tỉnh Cao Bằng.
Nghề nghiệp: Nông dân; Trình độ văn hóa: 02/12; Dân tộc: Sán Chỉ; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam.
Con ông Đặng Văn L (Đã chết) và bà Đặng Thị M, sinh năm 1958; Vợ: Hoàng Thị N, sinh năm 1988, con: 03 con, con lớn nhất sinh năm 2011, con nhỏ nhất sinh năm 2017.
Tiền sự: Không.
Tiền án: Một tiền án (Bản án hình sự số 36/2019/HS-ST ngày 26/9/2019 Tòa án nhân dân huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng xử phạt 06 tháng tù, về tội Trộm cắp tài sản).
Nhân thân: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng từ ngày 21/12/2021 đến nay (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).
- Bị hại: Ông Nông Văn K, sinh năm 1992; Nơi cư trú: Xóm NS, xã ĐH, huyện BM, tỉnh Cao Bằng (Có mặt tại phiên tòa).
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Văn K, sinh năm 1982; Nơi cư trú: Tổ dân phố M, thị trấn BL, huyện BL, tỉnh Cao Bằng (Vắng mặt tại phiên tòa).
- Người làm chứng:
+ Ông Lẻo Văn T, sinh năm 1984; Nơi cư trú: Xóm CM, xã CP, huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng (Có mặt tại phiên tòa).
+ Bà Sần Thị M, sinh năm 1963; Nơi cư trú: Xóm NN, xã CP, huyện BL, tỉnh Cao Bằng (Vắng mặt tại phiên tòa).
- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Triệu Bằng G - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Cao Bằng (Có mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 22 giờ ngày 11/12/2021, Đặng Văn D sinh năm 1986, trú tại xóm NR, xã CP, huyện BL, tỉnh Cao Bằng điều khiển xe máy nhãn hiệu Yamaha Jupiter màu đen – bạc, biển kiểm soát 11F9-xxxx của mình từ thị trấn Bảo Lạc về nhà, đến đoạn đường cầu PA thuộc xóm NĐ, xã TH, huyện BL, tỉnh Cao Bằng thì gặp Nông Văn K, trú tại xóm NS, xã ĐH, huyện BM, tỉnh Cao Bằng và Lẻo Văn T, trú tại xóm CM, xã CP, huyện BL, tỉnh Cao Bằng rồi cùng nhau đi uống rượu tại quán thuộc xóm NN, xã CP, huyện BL, tỉnh Cao Bằng đến khoảng 23 giờ cùng ngày thì cùng nhau về nhà vợ của K tại xóm NN, xã CP, huyện BL, tỉnh Cao Bằng để uống rượu tiếp. Đến nơi cả 03 người cùng ngồi uống rượu tại phòng khách, lúc đó bà Sần Thị M (mẹ vợ của K) đang ngồi tại bếp nói chuyện cùng. Quá trình uống rượu, D hỏi mượn điện thoại cảm ứng nhãn hiệu Vivo Y20s màu đen của K để xem phim, K đồng ý và cho D mật khẩu mở điện thoại là “000000”, điện thoại của K lắp 02 thẻ sim và trong ốp điện thoại có 01 căn cước công dân của K. Sau khi uống rượu, đến khoảng 01 giờ ngày 12/12/2021, K đi ngủ trước, chỉ còn T và D ngồi uống rượu với nhau và bà M ngồi cạnh bếp, lúc này D chưa trả điện thoại cho K mà vẫn đang sử dụng. Khoảng 02 giờ cùng ngày thì T và D ra về, lúc này D nảy sinh ý định chiếm đoạt điện thoại của K để bán lấy tiền mua ma túy sử dụng, lợi dụng lúc T không để ý, D cầm điện thoại cho vào túi quần rồi đi nhanh ra khỏi nhà, bà M thấy D cho điện thoại vào túi quần nhưng D đi nhanh nên không đuổi theo được. Sau khi lấy được điện thoại, D đi đến nhà của La Văn T, trú tại xóm NN, xã CP, huyện BL, tỉnh Cao Bằng để ngủ nhờ và không nói cho T biết về việc lấy điện thoại của K. Đến khoảng 08 giờ ngày 12/12/2021, do xe máy bị hỏng nên D đi nhờ xe của người qua đường đến thị trấn BL để bán điện thoại, trên đường đi D lấy thẻ căn cước công dân của K trong ốp điện thoại vứt xuống dưới đường. Khi đến thị trấn BL, D đến cửa hàng mua bán điện thoại MK tại Tổ dân phố M, thị trấn BL do Nguyễn Văn K làm chủ để bán điện thoại chiếm đoạt được của K với số tiền là 1.200.000 đồng. Sau đó, D ra khỏi quán và vứt 02 chiếc sim điện thoại lắp trong điện thoại của K rồi đến đoạn đường bờ sông Neo thuộc Tổ dân phố M, thị trấn BL dùng số tiền 800.000 đồng mua ma túy với một người đàn ông không rõ nhân thân, lai lịch đem đi sử dụng, số tiền còn lại D mang tiêu xài cá nhân.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị hại Nông Văn K trình bày: Khoảng 20 giờ ngày 11/12/12021 ông cùng Lẻo Văn T, trú tại xóm CM, xã CP đi từ thị trấn BL về nhà vợ tại xóm NN, xã CP. Khi qua khu vực NT, xã TH thì gặp Đặng Văn D và mời D về nhà vợ cùng uống rượu. Khi đang uống rượu thì D có hỏi mượn điện thoại di động nhãn hiệu Vivo Y20s màu đen của ông để xem phim, ông đồng ý và cung cấp mật khẩu cho D. Sau khi uống rượu, khoảng 01 giờ ngày 12/12/2021 ông say rượu nên đi ngủ trước còn T và D ngồi cùng nhau, lúc đó ông chưa lấy lại điện thoại cho D mượn. Sáng hôm sau ông tìm điện thoại nhưng không thấy, khi T đến nhà ông mới biết D đã lấy điện thoại của ông. Ngày 13/12/2021 ông cùng Trọng đến nhà D để hỏi về chiếc điện thoại nhưng D không thừa nhận. Đến ngày 15/12/2021 ông tìm được điện thoại tại cửa hàng MK tại tổ dân phố M, thị trấn BL và chuộc lại chiếc điện thoại với số tiền là 1.300.000 đồng. Nay ông yêu cầu Đặng Văn D phải có trách nhiệm bồi thường cho ông số tiền trên và yêu cầu xử lý bị cáo theo quy định của pháp luật.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 01 ngày 12/01/2022 của Hội đồng định giá tài sản huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng kết luận: Một điện thoại di động cảm ứng nhãn hiệu Vivo Y20s màu đen, số Imel 1: 867695051714813, số Imel 2: 867695051714805 có giá trị là 3.986.500đ (Ba triệu chín trăm tám mươi sáu nghìn năm trăm đồng).
Tại bản Cáo trạng số 12/CT-VKSBL ngày 18/3/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng đã truy tố bị cáo Đặng Văn D về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Đặng Văn D về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 175; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Đặng Văn D với khung hình phạt từ 06 (sáu) đến 09 (chín) tháng tù.
Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Đặng Văn D phải có trách nhiệm bồi thường cho bị hại Nông Văn K số tiền 1.300.000 đồng.
Người bào chữa cho bị cáo Ông Triệu Bằng G - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Cao Bằng trình bày quan điểm: Nhất trí với Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố đối với bị cáo về tội danh và khung hình phạt, trách nhiệm dân sự. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đến điều kiện hoàn cảnh dẫn đến hành vi phạm tội của bị cáo, bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, ít học. Quá trình điều tra và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo ăn năn hối lỗi. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cho bị cáo được hưởng mức hình phạt thấp nhất trong khung hình phạt mà Viện kiểm sát đề nghị.
Bị cáo Đặng Văn D không có lời bào chữa bổ sung, không tranh luận với Viện kiểm sát xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
Bị hại không tranh luận với quan điểm của Viện kiểm sát. Đề nghị Hội đồng xét xử xử lý theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng; Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng; Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội: Bị cáo Đặng Văn D thừa nhận bản Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố là đúng. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ, có đủ cơ sở kết luận: Ngày 11/12/2021 Đặng Văn D đã có hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là một điện thoại di động cảm ứng, nhãn hiệu Vivo Y20s của Nông Văn K tại xóm NN, xã CP, huyện BL, tỉnh Cao Bằng có trị giá 3.986.500 đồng. Bị cáo thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp, bị cáo đã có một tiền án về tội Trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích. Hành vi của bị cáo đã xâm hại trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự an ninh xã hội ở địa phương.
Điều 175 Bộ luật hình sự quy định:
“1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;” Xét thấy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Lạc truy tố đối với bị cáo Đặng Văn D về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Về nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:
Bị cáo Đặng Văn D sinh ra và lớn lên tại xã CP, huyện BL, tỉnh Cao Bằng. Bị cáo là người có sức khỏe lao động, được sống trong môi trường xã hội lành mạnh nhưng không tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lười lao động, lợi dụng sự tin tưởng của người khác để chiếm đoạt tài sản hưởng lợi cho bản thân. Bị cáo có nhân thân xấu, là người sử dụng và lệ thuộc vào ma túy. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải. Do đó, cần cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; Tình tiết tăng nặng: không có.
Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải xử lý bị cáo mức hình phạt nghiêm khắc để cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định để giáo dục, cải tạo bị cáo cúng như răn đe phòng ngừa chung trong xã hội.
[4] Về các vấn đề khác:
Đối với Nguyễn Văn K, tạm trú tại Tổ dân phố M, thị trấn BL, BL, Cao Bằng là người mua điện thoại với D vào sáng ngày 12/12/2021 với số tiền là 1.200.000 đồng lúc mua không biết đây là tài sản do D trộm cắp mà có nên không có căn cứ xử lý.
Đối với người đàn ông bán ma túy cho D vào sáng ngày 12/12/2021, tại đường bờ sông Neo thuộc Tổ dân phố M, thị trấn BL, BL, Cao Bằng, do không xác minh được người, địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ để xử lý.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Yêu cầu của bị hại về số tiền đã bỏ ra chuộc điện thoại là chính đáng. Buộc bị cáo Đặng Văn D phải có trách nhiệm bồi thường cho bị hại Nông Văn K số tiền 1.300.000 đồng.
[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của Pháp luật. Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự. Tuyên bố bị cáo Đặng Văn Dịch phạm tội "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản".
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 175; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Bị cáo Đặng Văn D 06 (Sáu) tháng tù, thời gian thụ hình được tính từ ngày bị cáo bị bắt giam 21/12/2021.
2. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 584, Điều 589 Bộ luật dân sự 2015.
Buộc bị cáo Đặng Văn D phải có trách nhiệm bồi thường cho bị hại Nông Văn K, trú tại NS, xã ĐH, huyện BM, tỉnh Cao Bằng một khoản tiền là 1.300.000đ (Một triệu ba trăm nghìn đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án đối với từng khoản tiền nêu trên cho đến khi thi hành án xong, hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi phát sinh do chậm trả của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự 2015.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án Bị cáo Đặng Văn D phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự và 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm nộp công quỹ nhà nước.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật.
Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 12/2022/HS-ST
Số hiệu: | 12/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bảo Lạc - Cao Bằng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/04/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về