Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 118/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 118/2023/HS-ST NGÀY 04/05/2023 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 04 tháng 5 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố D, tỉnh D xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 98/2023/TLST-HS ngày 23 tháng 3 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 134/2023/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 4 năm 2023 đối với bị cáo:

Hoàng Văn N, sinh năm 1981 tại tỉnh Q; thường trú: thôn Đ, xã Đ, huyện T, tỉnh Q; nghề nghiệp: tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: kinh; Quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: công giáo; giới tính: nam; con ông H Văn L (đã chết) và bà Hoàng Thị H, sinh năm 1949; có 08 anh em ruột, lớn nhất sinh năm 1970, nhỏ nhất sinh năm 1991; có vợ tên Trần Thị V, sinh năm 1978, có 03 con ruột, lớn sinh năm 2002, nhỏ sinh năm 2009; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: quyết định số 56QĐ/UB ngày 09/01/2004 của Ủy ban nhân dân tỉnh Q quyết định đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc 12 tháng về việc gây rối trật tự công cộng và cố ý gây thương tích, đã chấp hành xong ngày 15/02/2004; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/10/2022 cho đến nay; có mặt.

- Bị hại: Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1982; địa chỉ: số 143/18A đường Đ, khu phố T, phường Đ, thành phố D, tỉnh B; có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Thiều Văn N, sinh năm 1980; địa chỉ: tổ 3, ấp S, xã Đ, huyện B, tỉnh B; có yêu cầu giải quyết vắng mặt

2. Anh Dương Ngọc H, sinh năm 1982; địa chỉ: ấp S, xã Đ, huyện B, tỉnh B; vắng mặt

3. Bà Đinh Thị Đ, sinh năm 1954; địa chỉ: số 29B2 H, phường T, Quận 12, Thành phố H; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hoàng Văn N thuê xe tự lái của anh Châu Ngọc Đ, sinh năm 1980, địa chỉ: số 127GS1, khu phố T, phường Đ, thành phố D, tỉnh B nhiều lần. Ngày 22/5/2020, Hoàng Văn N liên hệ với anh Đ để thuê xe ô tô thời gian dài nhưng anh Đ không đồng ý. Anh Đ giới thiệu với anh Nguyễn Văn H cho Hoàng Văn N liên hệ thuê xe ô tô. Ngày 22/5/2020, anh H đến nhà anh Đ số 127GS1, khu phố T, phường Đ, thành phố D gặp Hoàng Văn N để thỏa thuận về việc cho thuê xe ô tô. Anh H đồng ý cho Hoàng Văn N thuê xe ô tô Toyota Innova biển số 51G- xxxx; số khung RLAXW43G5A9265783; số máy 1TR6943021, giá thuê 9.000.000đồng/tháng, thời hạn thuê 03 tháng kể từ ngày 22/5/2020 đến 22/8/2020, mục đích thuê để làm phương tiện đi lại, hai bên lập hợp đồng. Sau khi ký hợp đồng, Hoàng Văn N nhận xe và các giấy tờ liên quan.

Đến ngày 10/6/2020, Hoàng Văn N điều khiển xe ô tô Toyota Innova biển số 51G-xxxx đến tiệm cầm đồ “L” tại ấp S, xã Đ, huyện B, tỉnh B. Hoàng Văn N gặp anh Thiều Văn N (đại diện chủ tiệm cầm đồ) nói xe của vợ và muốn cầm cố chiếc xe, do giấy tờ xe không chính chủ nên anh N không đồng ý cầm chiếc xe. Do biết anh Dương Ngọc H, sinh năm 1982, địa chỉ ấp S, xã Đ, huyện B, tỉnh B có quen biết và là hàng xóm của anh N nên Hoàng Văn N điện thoại nhờ anh H điện thoại cho anh N xác nhận Hoàng Văn N đang làm ở công trình của anh H. Anh H điện thoại cho anh N xác nhận Hoàng Văn N làm việc tại công trình của anh H, đồng thời anh H nói với anh N cầm được thì cầm giúp Hoàng Văn N. Sau đó, anh N đồng ý cầm xe ô tô biển số 51G-xxxx cho Hoàng Văn N với số tiền 50.000.000 đồng. Đến ngày 16/6/2020, Hoàng Văn N đến tiệm cầm đồ gặp anh N cầm thêm 3.000.000 đồng, tổng số tiền Hoàng Văn N cầm cố xe ô tô là 53.000.000 đồng.

Ngày 22/8/2020 đến thời hạn trả xe, anh Nguyễn Văn H điện thoại cho Hoàng Văn N yêu cầu trả xe và tiền thuê xe. Hoàng Văn N hứa hẹn nhiều lần nhưng không trả xe và tiền thuê xe. Đến ngày 30/9/2020, anh Nguyễn Văn H nhận được tín hiệu định vị GPS báo trên điện thoại vị trí xe ô tô biển số 51G – xxxx, theo định vị anh H tìm và phát hiện xe ô tô đang để tại tiệm cầm đồ “L” tại ấp S, xã Đ, huyện B, tỉnh B. Ngày 08/10/2020 anh Nguyễn Văn H đến Công an phường Đ, thành phố D, tỉnh B trình báo.

Vật chứng thu giữ: xe ô tô biển số 51G-xxxx; số khung RLAXW43G5A9265783; số máy 1TR6943021; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô biển số 51G- xxxx (bản sao); 01 giấy chứng nhận kiểm định xe (bản chính);

01 giấy chứng nhận bảo hiểm (bản chính); 01 bản chứng minh nhân dân tên Hoàng Văn N (bản photo); 01 giấy phép lái xe hạng B2 mang tên Hoàng Văn N (bản chính); 01 hợp đồng cầm đồ.

Tại kết luận định giá số 211/KLĐG-HĐĐGTS ngày 19/11/2020 của Hội đồng định giá thường xuyên trong tố tụng hình sự, thành phố D, tỉnh D, kết luận xe ô tô biển số 51G- xxxx; số khung RLAXW43G5A9265783; số máy 1TR6943021 trị giá 280.000.000đồng.

Tại kết luận giám định số 316/KL - KTHS ngày 26/7/2022 ngày 26/7/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh D kết luận: Chữ ký và chữ viết họ tên “Hoàng Văn N” dưới mục đại diện bên B trên các tài liệu cần giám định (ký hiệu A1 đến A2) so với chữ ký, chữ viết họ tên của Hoàng Văn N trên các tài liệu mẫu (ký hiệu M1 đến M4) do cùng một người ký ra và viết ra.

Tại Cáo trạng số 127/CT-VKS-DA ngày 23 tháng 3 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, tỉnh D truy tố bị cáo Hoàng Văn N về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo khoản 3 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố D trong phần tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Hoàng Văn N về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 3 Điều 175; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Hoàng Văn N từ 05 năm đến 05 năm 06 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: tài sản bị chiếm đoạt là xe ô tô biển số 51G- xxxx; số khung RLAXW43G5A9265783; số máy 1TR6943021, đã thu hồi trả lại cho bị hại và bị hại không có yêu cầu gì nên không đề nghị xem xét giải quyết.

Bị cáo Hoàng Văn N đã khắc phục trả tiền cho anh Thiều Văn N 53.000.000đồng và tiền thuê xe cho ông Nguyễn Văn H 27.000.000đồng, các bên không yêu cầu bồi thường gì khác nên không đề nghị xem xét giải quyết.

Đối với ông Dương Ngọc H, giới thiệu cho Hoàng Văn N cầm cố chiếc xe và xác nhận Hoàng Văn N có làm công trình cho ông H, ông H không biết xe do Hoàng Văn N thuê và thực hiện hành vi phạm tội nên không có căn cứ để xử lý đồng phạm về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

Đối với ông Thiều Văn N cầm cố chiếc xe ô tô biển số 51G – xxxx; số khung RLAXW43G5A9265783; số máy 1TR694302, không biết Hoàng Văn N thuê xe thực hiện hành vi phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố D không xem xét, xử lý.

Tại phiên tòa, bị cáo Hoàng Văn N thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, không tranh luận, đối đáp gì. Tại phần nói lời sau cùng, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Tại đơn xin giải quyết vắng mặt và đơn xin giảm nhẹ hình phạt: Bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường gì và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại đơn xin giải quyết vắng mặt, anh N không yêu cầu bị cáo bồi thường gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố D, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình tố tụng, bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Căn cứ xác định hành vi phạm tội của bị cáo: ngày 22/5/2020 tại khu phố T, phường Đ, thành phố D, tỉnh B, bị cáo Hoàng Văn N thuê xe ô tô biển số 51G-xxxx trị giá 280.000.000 đồng của bị hại ông Nguyễn Văn H. Đến ngày 10/6/2020 bị cáo Hoàng Văn N đem xe đi cầm cố để lấy tiền tiêu xài cá nhân.

[3] Như vậy, hành vi của bị cáo sau khi nhận tài sản của bị hại rồi dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản có giá trị 280.000.000 đồng, đã đủ yếu tố cấu thành tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản’’ theo quy định khoản 3 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, Cáo trạng số 127/CT – VKS- DA ngày 23 tháng 3 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, tỉnh D và kết luận của Kiểm sát viên truy tố bị cáo Hoàng Văn N về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định khoản 3 Điều 175 của Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Tính chất, mức độ của hành vi: tội phạm do bị cáo thực hiện là rất nghiêm trọng, đã xâm phạm quyền sở hữu tài sản của bị hại được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Về nhận thức bị cáo hoàn toàn biết hành vi nhận tài sản của bị hại rồi cầm cố lấy tiền tiêu xài cá nhân là trái pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[5] Tình tiết tặng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo không có.

[6] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bồi thường thiệt hai, khắc phục hậu quả, bị hại có đơn xin bãi nại, xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[7] Về nhân thân: Bị cáo là người chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo từng bị đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc 12 tháng về việc gây rối trật tự công cộng và cố ý gây thương tích.

[8] Về trách nhiệm dân sự: tài sản bị chiếm đoạt là xe ô tô biển số 51G- xxxx; số khung RLAXW43G5A9265783; số máy 1TR6943021, trị giá 280.000.000 đồng, đã thu hồi trả lại cho bị hại và bị hại không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[9] Bị cáo Hoàng Văn N đã khắc phục trả tiền cho anh Thiều Văn N 53.000.000đồng và tiền thuê xe cho anh Nguyễn Văn H 27.000.000đồng, anh N và anh H không yêu cầu bồi thường gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[10] Ông Dương Ngọc H giới thiệu cho Hoàng Văn N cầm cố chiếc xe và xác nhận Hoàng Văn N làm việc tại công trình cho ông H. Ông H không biết xe do Hoàng Văn N thuê và thực hiện hành vi phạm tội nên không có căn cứ để xử lý đồng phạm về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

[11] Đối với ông Thiều Văn N cầm cố chiếc xe ô tô biển số 51G – xxxx; số khung RLAXW43G5A9265783; số máy 1TR694302, không biết Hoàng Văn N thuê xe thực hiện hành vi phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố D không xem xét, xử lý là phù hợp.

[12] Hình phạt chính: từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử quyết định hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo, đủ để rắn đe, giáo dục bị cáo và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[13] Hình phạt bổ sung: hội đồng xét xử quyết định hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo nên không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 175 Bộ luật Hình sự.

[14] Xét đề nghị Viện kiểm sát nhân dân thành phố D là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[15] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn N phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

- Áp dụng khoản 3 Điều 175; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Hoàng Văn N 05 (năm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 20/10/2022.

2. Về án phí sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 135 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Bị cáo Hoàng Văn N phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

19
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 118/2023/HS-ST

Số hiệu:118/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:04/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về