Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 117/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GL, THÀNH PHỐ HN

BẢN ÁN 117/2023/HS-ST NGÀY 20/07/2023 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 07 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện GL, thành phố HN đã xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 108/2023/HSST, ngày 12 tháng 06 năm 2023, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 110/2023/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 06 năm 2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: BVD, sinh năm 1991 tại NB; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Nơi ĐKHKTT: Xóm 5, xã GH, huyện GV, tỉnh NB. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 07/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông BVV, sinh năm 1961 và bà HTN, sinh năm 1960; Gia đình có ba anh em, bị cáo là con thứ 3; Có vợ là: chị VTD, sinh năm 1983 và 02 con BVM, sinh năm 2013 và BAT, sinh năm 2021; Tiền án, tiền sự: Theo danh chỉ bản số 000000180 lập ngày 11/3/2023 tại Công an huyện GL và lý lịch bị can thể hiện bị cáo không có tiền án, tiền sự.

Nhân thân:

- Bản án số 25/2018/HSST ngày 23/4/2018 của Tòa án nhân dân huyện GV, tỉnh NB xử phạt BVD 06 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Đã nộp 200.000 đồng án phí HSST. (Đã được xóa án tích).

- Bản án số 251/2018/HSST ngày 26/12/2018 của Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, HN xử phạt BVD 15 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Ra trại ngày 27/4/2020. Đã nộp 200.000 đồng án phí HSST ngày 10/7/2019. (Đã được xóa án tích).

Bị cáo đầu thú và tạm giữ từ ngày 08/3/2023, đến ngày 11/3/2023 áp dụng biện pháp tạm giam. Bị cáo hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 2 – Công an thành phố HN.

(Bị cáo có mặt) mặt.

- Người bị hại: Anh MND, sinh năm 1999; Địa chỉ: QM, YT, GL, HN. Vắng

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

+ Chị ĐHT, sinh năm 1998; Địa chỉ: Số 32 NT, LB, HN. Vắng mặt.

+ Chị NTH, sinh năm 1979; Địa chỉ: Tổ 9, TB, LB, HN. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 21/12/2022, anh MND - Sinh năm: 1999, HKTT: Khối 12, thị trấn PY, huyện PY, tỉnh SL; Chỗ ở: QM, YT, GL, HN đăng bài lên mạng xã hội Messenger trong nhóm “Tuyển dụng Shipper, Giao hàng HN” để nhận chở hàng quần áo thuê từ chợ NH, GL sang nội thành HN kèm theo số điện thoại 09240X91 của anh D.

Khoảng 7 giờ ngày 25/12/2022, chị ĐHT, Sinh năm: 1998, trú tại: Số 32, NT, LB, HN đi đến cửa hàng bán quần áo của chị NTTP - Sinh năm 1992, trú tại: thôn 7, NH, GL mua 02 set dạ sọc đen trắng với giá 280.000 đồng/01 set, 02 set dạ màu trắng với giá 250.000 đồng/01 set, 02 set dạ màu H với giá 250.000 đồng/01 set, 01 áo dạ có đai với giá 240.000 đồng với tổng số tiền là 2.090.000 đồng. Chị T đi đến cửa hàng “Toàn Mai” của chị NTM - Sinh năm 1983, trú tại: thôn 7, NH, GL mua 04 váy đuôi cá chất liệu thun màu đen với giá 170.000 đồng/01 váy; 03 chân váy chất liệu voan màu be với giá 130.000 đồng/01 chân váy; 02 chân váy len màu đen tăm với giá 170.000 đồng/01 chân váy với tổng số tiền là 1.410.000 đồng. Chị T đi đến cửa hàng “Nguyên Chất” của chị NTN - Sinh năm: 1984, trú tại: thôn 8, NH, GL mua 20 áo vets nữ màu đen với giá 170.000 đồng/01 áo vets, 15 áo len cổ lông với giá 170.000 đồng/01 áo, 20 váy màu xanh với giá 180.000 đồng/01 váy, 25 áo len cổ lọ với giá 150.000 đồng/01 áo với tổng số tiền 10.000.000 đồng. Chị T đi đến cửa hàng “Diệp Thành” của chị PTD - Sinh năm: 1985, trú tại: thôn 3, NH, GL mua 06 set sơmi màu trắng đen với giá 265.000 đồng/01 set sơmi, 04 áo len lông màu nâu với giá 215.000 đồng/01 áo, 10 chân váy màu đen, trắng, be với giá 175.000 đồng/01 chân váy, 03 set váy ren màu trắng, đen với giá 265.000 đồng/01 set váy, 04 áo len hở vai màu đỏ, nâu, be với giá 135.000 đồng/01 áo, 04 áo cổ lọ tang màu xám với giá 215.000 đồng/01 áo, 02 váy cổ lọ body với giá 185.000 đồng/01 váy với tổng số tiền 6.765.000 đồng. Chị T đi đến cửa hàng “T My” của chị NTT - Sinh năm 1990, trú tại: thôn 3, NH, GL mua 200 áo giữ nhiệt nữ với các màu đen, trắng, xanh, nâu với giá 35.000 đồng/01 áo với tổng số tiền 7.000.000 đồng. Chị T đi đến cửa hàng “Hiền Boutique” ở Dốc Lã, YT, GL, HN của chị NTTH - Sinh năm: 1999, trú tại: thôn HK, VH, ĐA, HN mua 45 chân váy màu be với giá 180.000 đồng/01 chân váy, 45 áo khoác lông viên gắn hạt nhựa màu trắng với giá 340.000 đồng/01 áo, 12 váy ren màu trắng với giá 340.000 đồng/01 váy, 06 áo len 2 khuy màu nâu với giá 320.000 đồng/01 áo, 02 áo len màu đỏ với giá 330.000 đồng/01 áo với tổng số tiền 30.060.000 đồng. Chị T đi đến cửa hàng “Bống Bang Studio” ở địa chỉ: 21 dãy nhà trắng, NH, GL của anh LQA - Sinh năm 1989, trú tại: Số 5/28 ngõ 54 KN, TN, HBT, HN mua 02 đầm body 2 dây viền đá khoét eo màu đỏ với giá 480.000 đồng/01 đầm tại với tổng số tiền 960.000 đồng. Chị T đi đến cửa hàng “Thanh Hùng” ở thôn 6, NH, GL của chị NTH - Sinh năm: 1990, trú tại: ngõ 158 NS, BĐ, LB, HN mua 02 áo len cộc tay màu đen, nâu với giá 170.000 đồng/01 áo, 02 áo giữ nhiệt nữ màu đen, xanh với giá 150.000 đồng/01 áo, 12 áo len lông màu trắng với giá 250.000 đồng/01 áo với tổng số tiền 3.640.000 đồng. Chị T đi đến cửa hàng “3D SHOP” của chị NHMA - Sinh năm 1993, trú tại: thôn 9, NH, GL mua 01 áo khoác dạ đen với giá 490.000 đồng, 02 áo khoác dạ đen kẻ với giá 600.000 đồng/01 áo, 02 áo khoác mangto màu nâu với giá 750.000 đồng/01 áo với tổng số tiền 3.190.000 đồng. Chị T đi đến cửa hàng “Thắng Thanh” của anh NVT - Sinh năm: 1989, trú tại: CT12B khu đô thị VH, GB, LB, HN mua 04 áo khoác lông màu đen, cam với giá 270.000 đồng/01 áo, 02 set BBR màu nâu đen với giá 230.000 đồng/01 set, 01 áo len màu nâu với giá 190.000 đồng, 02 set áo len màu trắng với giá 230.000 đồng/01 set, 01 áo bèo màu nâu với giá 90.000 đồng với tổng số tiền 2.280.000 đồng. Chị T đi đến cửa hàng “Khoa Việt” của anh NTV - Sinh năm 1982, trú tại: thôn 6, NH, GL mua 12 áo len tăm dài tay màu đen với giá 150.000 đồng/01 áo, 10 áo len tăm dài tay màu be với giá 150.000 đồng/ 01 áo với tổng số tiền 3.300.000 đồng. Chị T đi đến cửa hàng “H Quyên” ở thôn 7, NH, GL của chị TTQ - Sinh năm: 1980, trú tại: phường PL, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình mua 04 áo gile màu đen trắng với giá 400.000 đồng/01 áo, 01 áo len mặt cười màu đen với giá 450.000 đồng, 02 áo cadigan màu xám với giá 450.000 đồng/01 áo, 01 set váy đen hoa với giá 400.000 đồng với tổng số tiền 3.350.000 đồng. Ngoài ra, chị T mua thêm một số quần áo ngoài khác ngoài các hóa đơn trên. Tổng số tiền chị T mua quần áo là 78.665.000 đồng.

Sau khi mua hàng xong, khoảng 9 giờ ngày 25/12/2022, chị ĐHT gọi điện liên lạc anh D nói vào nhóm Zalo “Gom Bống” để xem thông tin các toa hàng sau đó đến các cửa hàng trên chở các đơn hàng mà chị T đã mua tại chợ NH, GL sang khu vực LB, HN. Anh D đồng ý.

Đến 10 giờ 26 phút cùng ngày, BVD sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu Redmi A1 màu đen lắp sim số điện thoại 0982479X gọi vào số điện thoại 09240X91 của anh D xin nhận chở thuê. Anh D đồng ý và hẹn D đến chợ NH cùng chở hàng cho chị ĐHT. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, BVD điều khiển xe máy ELEGANT nhãn hiệu SYM màu đen đỏ, đeo BKS: 35N1-X, phía sau xe có lắp giá chở hàng đến khu vực chợ NH, GL và gặp anh D tại khu vực dốc Baza. Anh D điều khiển xe máy đi trước còn D điều khiển xe máy đi sau đến các cửa hàng quần áo “Hữu Phương”, “Thắng Thương”, “Toàn Mai”, “Nguyễn Chất”, “Diệp Thành” và “T My” tại chợ NH, GL. Anh D là người trực tiếp vào trong các cửa hàng để lấy hàng quần, áo, váy của chị T đã mua đặt lên xe máy của D. Sau đó anh D và D điều khiển xe máy đi đến khu vực gần nhà văn hóa thôn 7, NH thì anh D vào lấy hàng quần áo còn D đứng ngoài đợi khoảng 3 phút thì D nảy sinh ý định chiếm đoạt toàn bộ số hàng quần, áo, váy mà anh D chuyển lên xe của D để bán lấy tiền tiêu xài. Để thực hiện mục đích trên D điều khiển xe máy chở toàn bộ số hàng quần, áo, váy trên về nhà trọ của D tại tổ 11, CK, LB, HN. Đến khoảng 9 giờ ngày 26/12/2022, D mang toàn bộ số quần, áo, váy trên đến cửa hàng “Shop H” tại địa chỉ số 287, đường TB, tổ 5, TB, LB, HN của chị NTH - Sinh năm 1979, trú tại: Tổ 9, TB, LB, HN nói là hàng quần, áo, váy của D đang cần bán thanh lý nên chị H đồng ý mua với giá 7.000.000 đồng. Số tiền này D đã tiêu xài cá nhân hết.

Ngày 27/12/2022, anh MND đã viết đơn trình báo sự việc trên gửi Cơ quan Công an.

Ngày 8/3/2023 BVD đến Công an huyện GL, thành phố HN đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên. Lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Vật chứng thu giữ của BVD:

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Redmi A1 màu đen lắp số điện thoại 0982479X; số Imei1: 863941069593342, số Imei2: 863941069593359 đã qua sử dụng, chưa kiểm tra chất lượng;

- 01 xe máy loại ELEGANT nhãn hiệu SYM màu đen đỏ đã qua sử dụng có số khung: RLGSC10THHH004218, số máy: VMSDBHH004218 không gắn biển kiểm soát.

Vật chứng thu giữ của chị NTH:

- 01 chân váy màu be; 01 set dạ H; 29 áo giữ nhiệt, trong đó gồm: 09 áo màu đen; 06 áo màu sữa, 05 áo màu trắng, 04 áo màu be.

Ngày 08/3/2023, Cơ quan CSĐT - Công an huyện GL đã ra Lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở của BVD tại tổ 11, phường CK, LB, HN. Quá trình khám xét không thu giữ đồ vật, tài liệu gì có liên quan đến hành vi phạm tội.

Tại Kết luận định giá tài sản số 22/KL-HĐĐGTS ngày 10/02/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện GL kết luận: 02 set dạ sọc đen trắng mới có giá 560.000 đồng; 02 set dạ màu trắng mới có giá 500.000 đồng; 02 set dạ màu H mới có giá 500.000 đồng; 01 áo dạ có đai mới có giá 240.000 đồng; 01 bộ quần áo nỉ H mới có giá 290.000 đồng; 04 váy đuôi cá chất liệu thun màu đen mới có giá 680.000 đồng; 03 chân váy chất liệu voan màu be mới có giá 390.000 đồng;

02 chân váy len màu đen tăm mới có giá 340.000 đồng; 20 áo vets nữ màu đen mới có giá 3.400.000 đồng; 15 áo len cổ lông có màu trắng, đen, nâu mới có giá 2.700.000 đồng; 20 váy màu xanh mới có giá 3.600.000 đồng; 25 áo len cổ lọ có màu trắng, đen, nâu mới có giá 3.750.000 đồng; 06 set sơ mi màu trắng đen mới có giá 1.560.000 đồng; 04 áo len lông màu nâu mới có giá 880.000 đồng; 10 chân váy có màu đen, trắng, be mới có giá 1.700.000 đồng; 03 set váy ren có màu trắng, đen mới có giá 780.000 đồng; 04 áo len hở vai có màu đỏ, nâu, be mới có giá 540.000 đồng; 04 áo cổ lọ tang màu xám mới có giá 840.000 đồng; 02 váy cổ lọ body có màu đen, nâu mới có giá 370.000 đồng; 200 áo giữ nhiệt nữ với các màu đen, trắng, xanh, nâu mới có giá 7.000.000 đồng; 45 chân váy màu be mới có giá 8.100.000 đồng; 45 áo khoác lông viền gắn hạt nhựa màu trắng mới có giá 15.750.000 đồng; 12 váy ren màu trắng mới có giá 3.840.000 đồng; 06 áo len 2 khuy màu nâu mới có giá 1.920.000 đồng; 02 áo len màu đỏ mới có giá 660.000 đồng; 02 đầm boby 2 dây viền đá khoét eo màu đỏ mới có giá 960.000 đồng; 01 áo khoác dạ đen mới có giá 490.000 đồng; 02 áo khoác dạ đen kẻ mới có giá 1.140.000 đồng; 02 áo khoác mangto màu nâu mới có giá 1.500.000 đồng; 04 áo khoác lông màu đen, cam mới có giá 1.080.000 đồng; 02 set BBR màu nâu đen mới có giá 460.000 đồng; 01 set áo len màu nâu mới có giá 190.000 đồng; 02 set áo len màu trắng mới có giá 460.000 đồng; 01 áo bèo màu nâu mới có giá 90.000 đồng; 02 áo len cộc tay màu đen, nâu mới có giá 340.000 đồng; 02 áo giữ nhiệt nữ màu đen, xanh mới có giá 300.000 đồng; 12 áo len lông màu trắng mới có giá 3.000.000 đồng; 12 áo len tăm dài tay màu đen mới có giá 1.800.000 đồng; 10 áo len tăm dài tay màu be mới có giá 1.500.000 đồng; 04 áo gile màu đen trắng mới có giá 1.600.000 đồng; 01 áo len mặt cười màu đen mới có giá 450.000 đồng; 02 áo cadigan màu xám mới có giá 900.000 đồng; 01 set váy đen hoa mới có giá 400.000 đồng. Tổng số tài sản bị chiếm đoạt là:

77.550.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 103/CT-VKSGL ngày 31 tháng 5 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện GL đã truy tố bị cáo BVD phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo điểm c khoản 2 điều 175 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

Bị cáo khai nhận hành vi mà bị cáo đã thực hiện như nội dung bản cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố. Bị cáo đồng ý bồi thường cho người bị hại tổng số tiền theo yêu cầu của người bị hại là 76.105.000 đồng nhưng hiện tại chưa thể bồi thường ngay, bị cáo xin được bồi thường sau khi thi hành xong hình phạt tù.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện GL sau khi tóm tắt nội dung sự việc, đánh giá lời khai của bị cáo tại phiên tòa; lời khai của bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo như nội dung bản cáo trạng; trình bày lời luận tội và đề nghị như sau:

Đề nghị áp dụng điểm c khoản 2 điều 175, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; và Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt BVD từ 30 đến 36 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt ngày 08/3/2023.

Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo vì bị cáo không có thu nhập ổn định.

Về dân sự: Buộc bị cáo phải bồi thường cho anh MND số tiền 76.105.000 đồng (sau khi đối trừ số quần, áo, váy đã thu hồi được và trả lại cho anh D). Đề nghị ghi nhận sự tự nguyện của anh MND về việc đồng ý bồi thường cho chị ĐHT tổng số tiền 77.550.000 đồng, anh D đã bồi thường số tiền 31.000.000 đồng, nay còn phải bồi thường nốt số tiền còn lại là 46.550.000 đồng.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là chị NTH không yêu cầu bị cáo BVD trả lại số tiền 1.445.000 đồng tương ứng với giá trị số quần áo, váy đã thu hồi. Đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận.

Về tang vật: Đề nghị áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu sung quỹ nhà nước: 01 xe máy loại ELEGANT nhãn hiệu SYM màu đen đỏ không gắn biển kiểm soát, có số máy: VMSBDHH004218, số khung: RLGSC10THHH004218, xe máy đã qua sử dụng, thu giữ của BVD;

Trả lại cho anh MND: 01 chân váy màu be; 01 set dạ H; 29 áo giữ nhiệt gồm:

09 áo màu đen, 06 áo màu sữa, 05 áo màu trắng, 04 áo màu be.

Trả lại cho bị cáo 01(một) điện thoại di dộng nhãn hiệu Redmi A1 màu đen số Imei 1: 863941069593342, Imei 2: 863941069593359, lắp số điện thoại 0982479X, máy đã qua sử dụng. Không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo BVD sau khi nghe quan điểm luận tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện GL, bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và đã nhận thức được hành vi đó là sai, vi phạm pháp luật. Bị cáo không có ý kiến bào chữa, tranh luận. Bị cáo đồng ý bồi thường cho người bị hại tổng số tiền theo yêu cầu của người bị hại là 76.105.000 đồng nhưng hiện tại chưa thể bồi thường ngay, bị cáo xin được bồi thường sau khi thi hành xong hình phạt tù.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra -Công an huyện GL, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện GL, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai báo toàn bộ hành vi phạm tội. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

Người bị hại là anh MND, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là chị ĐHT và chị NTH đã được tống đạt hợp lệ, vắng mặt tại phiên tòa, anh D và chị H có đơn xin được xét xử vắng mặt, chị T vắng mặt không có lý do. Sự vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến kết quả xét xử. Tòa án xét xử vắng mặt họ theo quy định tại Điều 292 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

[2] Về hành vi của bị cáo:

[2.1] Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, sơ đồ hiện trường, kết luận định giá tài sản và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ đã thu thập được, đủ cơ sở kết luận:

Hồi 15 giờ 30 phút ngày 25/12/2022, tại thôn 7, NH, GL, HN, bị cáo BVD sau khi nhận được số lượng 503 chiếc quần, áo, váy các loại, có tổng giá trị 77.550.000 đồng do anh MND thuê chở từ NH, GL, HN đến khu vực LB, HN cho chị ĐHT nhưng D đã không giao hàng cho chị T mà mang toàn bộ số hàng quần, áo, váy trên đi bán lấy tiền tiêu xài cá nhân.

[2.2] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an xã hội ở địa phương.

Lợi dụng sự tin tưởng của người bị hại, bị cáo đã chiếm đoạt số hàng hóa mà người bị hại thuê bị cáo vận chuyển.

Viện kiểm sát nhân dân huyện GL, thành phố HN đã truy tố và kết luận bị cáo BVD phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 175 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[4] Về nhân thân của bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Khi lượng hình Hội đồng xét xử đã xem xét: Nhân thân bị cáo có 02 tiền án đã được xóa án tích, lần phạm tội này của bị cáo không thuộc trường hợp tái phạm nhưng thể hiện việc bị cáo coi thường pháp luật, mặc dù đã được giáo dục mà vẫn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Tuy nhiên, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Sau khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo đã đến cơ quan Công an để đầu thú. Đây là các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5].Về áp dụng hình phạt đối với bị cáo: Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đã viện dẫn, Hội đồng xét xử thấy cần phải áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục đối với bị cáo và răn đe phòng ngừa tội phạm chung.

Bị cáo không có thu nhập ổn định nên HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6]. Xử lý vật chứng.

Tịch thu sung quỹ nhà nước: 01 xe máy loại ELEGANT nhãn hiệu SYM màu đen đỏ không gắn biển kiểm soát, có số máy: VMSBDHH004218, số khung: RLGSC10THHH004218, xe máy đã qua sử dụng, thu giữ của BVD – Là công cụ, phương tiện bị cáo sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội.

Trả lại anh MND: 01 chân váy màu be; 01 set dạ H; 29 áo giữ nhiệt, trong đó gồm: 09 áo màu đen, 06 áo màu sữa, 05 áo màu trắng, 04 áo màu be thu giữ của chị NTH.

Trả lại cho bị cáo 01(một) điện thoại di dộng nhãn hiệu Redmi A1 màu đen số Imei 1: 863941069593342, Imei 2: 863941069593359, lắp số điện thoại 0982479X, máy đã qua sử dụng. Không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo.

[7]. Về dân sự: Sau khi xử lý vật chứng trả lại cho anh MND số quần, áo, váy đã thu hồi được gồm: 01 chân váy màu be trị giá 180.000 đồng, 01 sét dạ H trị giá 250.000 đồng, 29 áo giữ nhiệt trị giá 1.015.000 đồng. Tổng giá trị tài sản được đối trừ nghĩa vụ là 1.445.000 đồng.

Buộc bị cáo phải bồi thường cho anh MND số tiền 76.105.000 đồng. Ghi nhận sự tự nguyện của anh MND về việc đồng ý bồi thường cho chị ĐHT tổng số tiền 77.550.000 đồng, anh D đã bồi thường số tiền 31.000.000 đồng, nay còn phải bồi thường nốt số tiền còn lại là 46.550.000 đồng.

Đối với số tiền 1.445.000 đồng: Dù đã được Tòa án giải thích quyền được đòi lại tài sản nhưng người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là chị NTH không yêu cầu bị cáo BVD trả lại số tiền 1.445.000 đồng là số tiền tương ứng với giá trị tài sản đã bị thu hồi bao gồm: 01 chân váy màu be trị giá 180.000 đồng, 01 sét dạ H trị giá 250.000 đồng, 29 áo giữ nhiệt trị giá 1.015.000 đồng, nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[8] Các vấn đề khác: Đối với chị NTH, là người mua toàn bộ số hàng quần, áo, váy của bị cáo BVD, chị H không biết là tài sản do D phạm tội mà có nên Cơ quan CSĐT – Công an huyện GL không có căn cứ để xử lý về hình sự. Đến nay, chị H không có yêu cầu đề nghị gì nên Hội đồng xét xử không đặt vấn đề giải quyết.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo BVD phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

1. Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 175 của Bộ luật hình sự; Điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 và Điều 47 của Bộ luật hình sự. Áp dụng các Điều 106, 135, 136, 299, 326, 331 và 333 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Luật thi hành án.

Xử phạt: BVD 36 (ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 08 tháng 3 năm 2023.

2. Về dân sự: Buộc bị cáo phải bồi thường cho anh MND số tiền 76.105.000 đồng. Anh MND có trách nhiệm bồi thường cho chị ĐHT số tiền 77.550.000 đồng, anh D đã bồi thường số tiền 31.000.000 đồng, nay còn phải bồi thường nốt số tiền còn lại là 46.550.000 đồng.

Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành có đơn đề nghị thi hành án mà người phải thi hành án không thi hành hoặc thi hành không đầy đủ số tiền phải thi hành án thì người phải thi hành án còn phải trả lãi đối với số tiền chưa thi hành tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

3. Xử lý vật chứng:

* Tịch thu sung quỹ nhà nước: 01 xe máy loại ELEGANT nhãn hiệu SYM màu đen đỏ không gắn biển kiểm soát, có số máy: VMSBDHH004218, số khung: RLGSC10THHH004218, xe máy đã qua sử dụng, thu giữ của BVD;

* Trả lại cho anh MND: 01 chân váy màu be; 01 set dạ H; 29 áo giữ nhiệt, trong đó gồm: 09 áo màu đen, 06 áo màu sữa, 05 áo màu trắng, 04 áo màu be.

* Trả lại cho bị cáo 01(một) điện thoại di dộng nhãn hiệu Redmi A1 màu đen số Imei 1: 863941069593342, Imei 2: 863941069593359, lắp số điện thoại 0982479X, máy đã qua sử dụng.

(Các vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện GL, thành phố HN, có tình trạng, đặc điểm như Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 12/06/2023 giữa Công an huyện GL và Chi cục thi hành án dân sự huyện GL, thành phố HN) 4. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm; 3.805.250 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, vắng mặt người bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

7
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 117/2023/HS-ST

Số hiệu:117/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Lâm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về