Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 113/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN T, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 113/2023/HS-ST NGÀY 08/08/2023 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 08 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 69/2023/TLST-HS ngày 14 tháng 4 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 189/2023/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 7 năm 2023, đối với bị cáo:

Nguyễn Anh D; sinh năm: 2000, tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi cư trú (nơi đăng ký thường trú: 399/13 LT5, Phường N, Quận Y, TP.HCM; chỗ ở: 215/31/5A Bông Sao, Phường N, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh); nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H và bà Trần Thị Bạch T; chưa có vợ, con; tiền án: Không.

Tiền sự: Ngày 28/8/2020, Toà án nhân dân huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 24 tháng (quyết định số 20/QĐ-TA). Ngày 27/6/2022, chấp hành xong.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Đến ngày 21/4/2023, bị bắt theo Quyết định bắt, tạm giam số 02/2023/HSST-QĐBTG ngày 14/4/2023 của Tòa án nhân dân Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh. (có mặt)

- Bị hại: Anh Nguyễn Phú Q, sinh năm 2001; nơi cư trú (nơi đăng ký thường trú: Ấp ĐP, xã ĐH, huyện CĐ, Thành phố CT; chỗ ở: Phòng trọ số 3, nhà trọ thuộc Ấp 6, xã MY, huyện BLc, tỉnh LA). (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ ngày 09/11/2022, anh Nguyễn Phú Q ở tại phòng trọ thuộc Ấp 6, xã MY, huyện BL, tỉnh LA chuẩn bị đi đến ngân hàng Shinhan tại quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh, thì gặp bạn cùng dãy trọ là Nguyễn Anh D. Lúc này, D ngỏ lời xin đi nhờ xe của anh Q lên Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh để gặp bạn của D tên Thiện (không rõ lai lịch) để mượn tiền và ghé thăm nhà mẹ của D tại Phường N, Quận T. Anh Q đồng ý và điều khiển xe gắn máy hiệu Winner X, biển số: 94K2-285.xx chở D đến ngân hàng Shinhan chi nhánh tại số 20 Cộng Hòa, Phường 12, quận Tân Bình bổ sung hồ sơ vay tiền của anh Q. Sau đó, anh Q chở D đến quán cà phê bên lề đường tại số 13 Đường 892 TQB, Phường N, Quận Y theo chỉ dẫn của D. Khoảng 10 phút sau, D hỏi mượn xe gắn máy trên và điện thoại di động hiệu Oppo A15S của anh Q để đi gặp và liên lạc với Thiện mượn tiền. Do tin tưởng nên anh Q đồng ý giao xe và điện thoại cho D mượn.

D điều khiển xe gắn máy của anh Q đến quán cà phê lề đường gần đường TQB, Phường N, Quận Y để gặp Thiện. Tại đây, Thiện nói kẹt tiền, không cho D mượn được, khi nào có tiền sẽ liên hệ sau. Do không có tiền đóng tiền lãi cầm xe gắn máy của mình nên D nảy sinh ý định bán chiếc xe gắn máy hiệu Winner X, biển số: 94K2-285.xx và chiếc điện thoại di động của anh Q để lấy tiền đóng tiền lãi và tiêu xài cá nhân. Thực hiện ý định, D gọi điện thoại cho một người tên Trường (không rõ lai lịch) nhờ cầm giúp chiếc xe Winner X, biển số: 94K2-285.xx của anh Q. Trường hẹn gặp D tại khu vực cổng chào huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An, rồi dẫn D tới nhà bạn của Trường (không rõ địa chỉ). Do xe không có giấy tờ nên không cầm được, sau đó D đồng ý để Trường bán chiếc xe trên cho hai vợ chồng (không rõ lai lịch) là bạn của Trường với giá 12.000.000 đồng, Trường giữ lại 2.500.000 đồng tiền giới thiệu, đưa cho D 9.500.000 đồng, D tiêu xài cá nhân và đến thuê phòng tại nhà nghỉ Vĩnh Tú, Ấp 2, xã MY, huyện BL, tỉnh LA. Chiếc điện thoại di động Oppo A15S mượn của anh Q, D đã làm rơi ở đâu, lúc nào không rõ nên không thu hồi được.

Khoảng 22 giờ 30 phút, ngày 07/11/2022, do chờ đợi nhưng không thấy D quay lại, không liên lạc được với D nên anh Q về nhà đăng tin trên Facebook và dán tờ rơi tìm D. Khoảng 16 giờ 30 phút, ngày 14/11/2022, anh Q biết tin D đang ở tại nhà nghỉ Vĩnh Tú, Ấp 2, xã MY, huyện BL, tỉnh LA nên anh Q cùng người nhà đến nhà nghỉ Vĩnh Tú giữ D lại và trình báo Công an xã Mỹ Yên. Công an xã Mỹ Yên bàn giao Nguyễn Anh D cho Công an Phường N, Quận T xử lý theo thẩm quyền. Vụ việc được lập hồ sơ chuyển đến Cơ quan điều tra Công an Quận T để điều tra, làm rõ.

Ngày 07/12/2022, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Quận T kết luận: Trị giá 01 xe gắn máy hiệu Honda Winner X, biển số: 94K2-285.xx là 30.030.000 đồng, 01 điện thoại di động Oppo A15S có trị giá là 2.800.000 đồng. Tổng trị giá các tài sản là 32.830.000 đồng.

Ngày 14/12/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận T ra Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú đối với Nguyễn Anh D để điều tra về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Quá trình điều tra, D khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội nêu trên và khai khi nhờ Trường bán xe gắn máy hiệu Honda Winner X, biển số: 94K2-285.xx cho hai vợ chồng (không rõ lai lịch) thì D không nói nguồn gốc xe trên do D chiếm đoạt mà có.

Về trách nhiệm dân sự: Anh Nguyễn Phú Q yêu cầu Nguyễn Anh D bồi thường số tiền 34.200.000 đồng.

Tại bản Cáo trạng số 81/CT-VKS-Q8 ngày 14/4/2023, Viện kiểm sát nhân dân Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố bị cáo Nguyễn Anh D về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, theo điểm b khoản 1 Điều 175 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Nguyễn Anh D về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Sau khi phân tích, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 175; các điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo từ 01 năm 03 tháng đến 02 năm 06 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Về trách nhiệm dân sự, buộc bị cáo bồi thường thiệt hại cho bị hại. Về xử lý vật chứng, tiếp tục lưu giữ theo hồ sơ vụ án 01 đĩa DVD chứa nội dung ghi âm, ghi hình khi lấy lời khai của Nguyễn Anh D vào ngày 10/01/2023.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận; bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, ăn năn hối cải và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai bị hại, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, xác định: Vào ngày 09/11/2022, tại quán cà phê lề đường trước số 13 Đường 892 TQB, Phường N, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh, bị cáo Nguyễn Anh D hỏi mượn của anh Nguyễn Phú Q 01 xe gắn máy hiệu Honda Winner X, biển số: 94K2-285.xx và 01 điện thoại di động Oppo A15S để làm phương tiện di chuyển và liên lạc với bạn để hỏi mượn tiền. Sau đó, vì không mượn được tiền, không có tiền trả tiền lãi cầm xe nên bị cáo nảy sinh ý định chiếm đoạt xe và điện thoại của anh Q, rồi dùng thủ đoạn gian dối để bán xe biển số: 94K2-285.xx lấy tiền và sau đó bỏ trốn. Riêng chiếc điện thoại di động Oppo A15S bị cáo đã đánh rơi nên không thu hồi được.

Như vậy, thông qua việc mượn tài sản của bị hại, bị cáo đã bán xe và bỏ trốn nhằm chiếm đoạt của anh Nguyễn Phú Q 01 xe gắn máy hiệu Honda Winner X, biển số: 94K2- 285.xx trị giá 30.030.000 đồng và 01 điện thoại di động Oppo A15S trị giá 2.800.000 đồng, tổng trị giá tài sản bị chiếm đoạt là 32.830.000 đồng.

[3] Điều 175 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” như sau:

“1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;

b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.

… 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”

[4] Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của cá nhân được pháp luật bảo vệ. Như vậy, Hội đồng xét xử có căn cứ xác định hành vi của bị cáo Nguyễn Anh D đã đủ yếu tố cấu thành tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 175 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[5] Bị cáo lợi dụng sự tín nhiệm của bị hại và sau đó chiếm đoạt tài sản của bị hại nên Viện kiểm sát truy tố bị cáo tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” là có cơ sở, đúng người, đúng tội. Tuy nhiên, Viện kiểm sát xác định tình tiết định tội của bị cáo theo điểm b khoản 1 Điều 175 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) vì xác định bị cáo mượn tài sản của bị hại sau đó sử dụng vào mục đích bất hợp pháp, dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản là chưa chính xác, chưa đúng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội. Bởi lẽ, bị cáo có được tài sản là xe gắn máy hiệu Honda Winner X, biển số: 94K2-285.xx và 01 điện thoại di động Oppo A15S thông qua việc mượn tài sản từ bị hại Q. Do tin tưởng nên bị hại giao tài sản cho bị cáo, sau khi có được tài sản, vì không mượn được tiền, không có tiền trả tiền lãi cầm xe, cũng như muốn có tiền tiêu xài nên bị cáo nảy sinh ý định chiếm đoạt xe và điện thoại của anh Q, rồi dùng thủ đoạn gian dối để bán xe biển số: 94K2-285.xx lấy tiền và sau đó bỏ trốn. Bị cáo có hành vi bỏ trốn nhằm chiếm đoạt tài sản của bị hại, đây là tình tiết định tội thuộc trường định hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều 175 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[6] Bị cáo khai nhờ đối tượng tên Trường liên hệ bán xe cho hai vợ chồng (không rõ lai lịch), việc bị cáo che giấu thông tin để bán xe là giao dịch dân sự vô hiệu. Mặt khác, ngoài lời khai của bị cáo thì không còn chứng cứ nào khác chứng minh thực tế bị cáo có bán xe cho người khác hoặc dùng xe chiếm đoạt được vào mục đích bất hợp pháp. Việc Viện kiểm sát truy tố bị cáo như trên không làm thay đổi tội danh, không có sự khác biệt về khung hình phạt áp dụng đối với bị cáo so với nhận định, đánh giá của Hội đồng xét xử nên Hội đồng xét xử không cần trả hồ sơ vì không thuộc các trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung theo Điều 280 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[7] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xét tính nghiêm trọng cùng hậu quả của tội phạm mà bị cáo đã thực hiện, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định bằng hình phạt tù có thời hạn nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa phạm tội mới; đồng thời phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm trong xã hội.

[8] Xét thấy, bị cáo có 01 tiền sự bị Toà án nhân dân huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc vào năm 2020. Do đó, khi lượng hình, Hội đồng xét xử cũng xem xét để quyết định hình phạt phù hợp với nhân thân của bị cáo.

[9] Xét trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng các điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo.

[10] Xét thấy, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo là lao động tự do, thu nhập không ổn định, điều kiện kinh tế còn khó khăn nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[11] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, bị hại Nguyễn Phú Q yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 34.200.000 đồng. Xét thấy, thiệt hại xảy ra là do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Tại phiên tòa, bị cáo đồng ý bồi thường thiệt hại theo yêu cầu của bị hại, do đó Hội đồng xét xử căn cứ Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Điều 589 của Bộ luật Dân sự, buộc bị cáo bồi thường cho bị hại Nguyễn Phú Q số tiền 34.200.000 đồng.

[12] Về xử lý vật chứng: 01 đĩa DVD chứa nội dung ghi âm, ghi hình khi lấy lời khai của Nguyễn Anh D vào ngày 10/01/2023, xét đây là dữ liệu điện tử có giá trị chứng minh tội phạm nên cần tiếp tục lưu theo hồ sơ vụ án.

[13] Đối với Trường (bạn của D, không rõ lai lịch) và hai vợ chồng (bạn của Trường, không rõ lai lịch) mua chiếc xe gắn máy hiệu Honda Winner X, biển số: 94K2-285.xx là tài sản do D chiếm đoạt mà có. Do không xác định được lai lịch, Cơ quan điều tra không có căn cứ xử lý nên Hội đồng xét xử không xem xét trong vụ án này.

[14] Về án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ quy định tại Điều 23 và Điều 26 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 175; các điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Nguyễn Anh D 01(một) năm 03 (ba) tháng tù, về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 21/4/2023.

- Căn cứ vào Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); các điều 357, 468, 589 của Bộ luật Dân sự.

Buộc bị cáo Nguyễn Anh D bồi thường cho anh Nguyễn Phú Q số tiền 34.200.000 (ba mươi bốn triệu hai trăm ngàn) đồng, thi hành ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật tại Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

- Căn cứ vào các điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Buộc bị cáo nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và 1.710.000 (một triệu bảy trăm mười ngàn) đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, tính từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

7
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 113/2023/HS-ST

Số hiệu:113/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Phú - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về