Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 11/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỮU LŨNG, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 11/2023/HS-ST NGÀY 21/02/2023 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 02 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn, xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 07/2023/TLST- HS ngày 03 tháng 02 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2023/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 02 năm 2023, đối với bị cáo:

Bùi T, sinh ngày 06 tháng 5 năm 1993 tại Bắc Giang. Nơi cư trú: Thôn V, xã Đ, huyện Y, tỉnh Bắc Giang; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi G và bà Nguyễn S; có chồng là Đồng S (đã ly hôn) và 01 con; tiền án: Có 01 (Bản án số: 22/2020/HSST ngày 28/5/2020, của Tòa án nhân dân huyện A, thành phố Hải Phòng, xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản); tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 12/12/2022 đến nay. Có mặt.

- Bị hại: Ông Nguyễn H, sinh năm 1977. Địa chỉ: Thôn L, xã Đ, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Nguyên Hoàng Long, sinh năm 1970. Địa chỉ: Tổ dân phố B, thị trấn B, huyện Y, tỉnh Bắc Giang. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 04/10/2022, Bùi T nhân viên quán Karaoke Thanh Thanh, hỏi mượn ông Nguyễn H xe máy điện để đi chợ mua đồ dùng cá nhân, ông H tin tưởng đã cho Bùi T mượn chiếc xe máy điện nhãn hiệu LTPBIKE chưa đăng ký biển kiểm soát. Sau khi nhận được xe, Bùi T điều khiển xe đi chợ Đồng Tiến mục đích để mua đồ. Trên đường đi Bùi T nảy sinh ý định chiếm đoạt xe máy điện của ông Nguyễn H bán lấy tiền nên đã điều khiển xe đến cửa hàng sửa chữa, mua bán xe điện của ông Nguyễn L, ở tổ dân phố H, thị trấn B, huyện Y, tỉnh Bắc Giang bán xe. Khi giao dịch, Bùi T nói dối tên là Nguyễn Ngọc Lan trú tại thành phố Hải Phòng, nhằm mục đích che giấu hành vi phạm tội. Ông Nguyễn L sau khi xem xe đã mua với giá 2.000.000 đồng và viết giấy mua bán xe với tên người bán là Nguyễn Ngọc Lan. Sau khi bán xe Bùi T không quay lại quán Karaoke Thanh Thanh mà đến thị trấn Kép, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang thuê nhà trọ để ở. Số tiền bán xe có được Bùi T đã sử dụng vào mục đích cá nhân hết.

Tại bản kết luận định giá tài sản số: 48/KL-HĐĐGTS ngày 12/10/2022, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Hữu Lũng kết luận: Chiếc xe máy điện nhãn hiệu LTPBIKE có trị giá 2.000.000 đồng.

Cáo trạng số: 11/CT-VKS ngày 02 tháng 02 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn, đã truy tố bị cáo Bùi T, về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo điểm b khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng đã truy tố.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Bùi T, phạm tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Đề nghị áp dụng điểm b khoản 1 Điều 175; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 09-12 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về vật chứng, đã xử lý nên không xem xét. Về trách nhiệm dân sự, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ai yêu cầu nên không xem xét. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Trong lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử, xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên; Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà. Vì vậy, có đủ cơ sở để kết luận: Ngày 04/10/2022, Bùi T được ông Nguyễn H cho mượn xe máy điện nhãn hiệu LTPBIKE (chưa đăng ký, có trị giá 2.000.000 đồng), sau khi mượn được xe Bùi T nảy sinh ý định chiếm đoạt nên đã bán xe máy điện cho ông Nguyễn L với giá 2.000.000 đồng. Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo Bùi T có một tiền án về tội Trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích. Do đó, hành vi của bị cáo Bùi T đã đủ yếu tố cấu thành tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 175 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Hành vi của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, quyền này được pháp luật bảo vệ. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, nhưng vì muốn có tiền một cách nhanh chóng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo đã làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự trên địa bàn nên cần phải xử lý nghiêm.

[4] Về nhân thân: Bị cáo là người sử dụng chất ma túy từ năm 2017, bị cáo có 01 tiền án nhưng đây là tình tiết định khung nên không tính là tình tiết tăng nặng, do đó về tình tiết tăng nặng bị cáo không có. Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5] Xét lời luận tội của Kiểm sát viên về đề nghị mức hình phạt áp dụng đối với bị cáo là thấp chưa tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo. Do đó, Hội đồng xét xử sẽ xem xét, cân nhắc một mức án cao hơn Kiểm sát viên đề nghị nhưng phù hợp với hành vi của bị cáo để đảm bảo tính chất răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[6] Về hình phạt bổ sung: Tại biên bản xác minh thể hiện bị cáo không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ai yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Về vật chứng của vụ án: Quá trình điều tra xe máy điện nhãn hiệu LTPBIKE, Cơ quan điều tra đã xử lý trả lại cho bị hại nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[9] Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

[10] Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án theo Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 175; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016, của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Bùi T phạm tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Bùi T 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 12/12/2022.

3. Về án phí: Bị cáo Bùi T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm, để nộp ngân sách Nhà nước.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

12
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 11/2023/HS-ST

Số hiệu:11/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về