Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 108/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 108/2022/HS-ST NGÀY 14/06/2022 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 6 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 88/2022/TLST-HS ngày 09 tháng 5 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 95/2022/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 5 năm 2022 đối với bị cáo:

Bùi Vũ K, sinh năm 1993 tại Hậu Giang; giới tính: Nam; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp T, xã T, huyện P, tỉnh Hậu Giang; chỗ ở: Không nơi cư trú nhất định; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 9/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Bùi Văn N và bà Nguyễn Thị Cà M; bị cáo chưa có vợ con; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị bắt truy nã và tạm giam từ ngày 22/12/2021 đến nay;

Bị cáo có mặt tại phiên tòa;

* Người tham gia tố tụng khác:

1. Bị hại: Công ty trách nhiệm hữu hạn H.

Trụ sở: Số 7 đường số 14, Khu đô thị H, phường T, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1977 – (vắng mặt) Nơi cư trú: 288 C, Phường B, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị Cà M, sinh năm 1961 – (vắng mặt) Nơi cư trú: Ấp T, xã T, huyện P, tỉnh Hậu Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng tháng 5/2018, Bùi Vũ K nộp hồ sơ xin việc tại Công ty trách nhiệm hữu hạn H (gọi tắt là Công ty H) do bà Nguyễn Thị Thu H làm giám đốc. Ngày 25/12/2018, Công ty H phân công K đến Công ty T, địa chỉ 1A70/1 đường Trần Văn Giàu, ấp 1, xã Phạm Văn Hai, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh để thu tiền bán hàng về nộp lại cho Công ty H. Đến khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày, K đến Công ty T gặp chị Lê Ánh B (là kế toán công ty) nhận 50.000.000 đồng tiền hàng. Sau nhận tiền xong, K nảy sinh ý định chiếm đoạt số tiền này để có tiền trả nợ và mua thuốc cho mẹ chữa bệnh. Lúc này, K điện thoại về Công ty H giả vờ báo với Công ty là do ngân hàng đã nghỉ làm và mẹ ruột của K mất nên K phải về quê gấp, vài ngày nữa K sẽ nộp tiền vào tài khoản ngân hàng của Công ty. Sau đó, K khóa máy điện thoại di động rồi bỏ trốn. Sau khi chiếm đoạt được 50.000.000 đồng, K lấy 36.000.000 đồng trả nợ, số tiền còn lại K mua thuốc chữa trị bệnh cho mẹ và tiêu xài cá nhân hết.

Đến ngày 26/12/2018, Công ty H thấy K không nộp lại số tiền trên và không liên lạc được với K nên Công ty H cử nhân viên xuống nhà K xác minh nhưng không gặp K và biết K nói dối mẹ mất để nhằm mục đích chiếm đoạt tiền hàng của Công ty H. Ngày 27/12/2018, chị Đặng Thị S (đại diện Công ty H) đến Công an xã Phạm Văn Hai trình báo vụ việc. Công an xã lập hồ sơ Công an xã lập hồ sơ ban đầu, chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh điều tra, xử lý.

Ngày 14/4/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh ra Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Bùi Vũ K về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” quy định tại khoản 2 Điều 175 Bộ luật hình sự. Sau đó, K đã bỏ đi khỏi nơi cư trú nên Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra Quyết định truy nã đối với Bùi Vũ K. Ngày 22/12/2021, K bị bắt theo Quyết định truy nã.

Vật chứng, tài liệu thu giữ: 01 phiếu xuất kho bán hàng ghi ngày 25/12/2018 cho Công ty TNHH T (do ông Trần Văn L làm giám đốc) có chữ ký của Bùi Vũ K nhận tổng cộng 50.000.000 đồng, có xác nhận của Lợi (được lưu hồ sơ vụ án).

Về dân sự: Công ty H yêu cầu K trả lại số tiền 50.000.000 đồng cho Công ty H.

Tại Cáo trạng số: 79/CT-VKS ngày 28/4/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Bùi Vũ K về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 175 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 175, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017:

- Xử phạt bị cáo từ Bùi Vũ K từ 02 năm đến 03 năm tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”;

- Về vật chứng: Bảo lưu hồ sơ vụ án 01 phiếu xuất kho bán hàng ghi ngày 25/12/2018 cho Công ty TNHH T (do ông Trần Văn L làm giám đốc) có chữ ký của Bùi Vũ K nhận tổng cộng 50.000.000 đồng, có xác nhận của Lợi.

- Về dân sự: Tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp của Công ty H đã được triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không rõ lý do nên đề nghị Hội đồng xét xử tách phần dân sự ra để giải quyết bằng một vụ án dân sự khác khi Công ty H có yêu cầu.

Tại phiên tòa, bị cáo Bùi Vũ K khai nhận hành vi như nội dung vụ án nêu trên và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để sớm quay về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Điều tra viên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục, quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét thấy lời khai tại phiên tòa của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, vật chứng của vụ án và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận vào 25/12/2018, sau khi được Công ty H cử bị cáo đến Công ty T tại địa chỉ 1A70/1 đường Trần Văn Giàu, ấp 1, xã Phạm Văn Hai, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh để nhận tiền hàng 50.000.000 đồng và giao nộp lại cho Công ty H. Sau khi nhận được số tiền 50.000.000 đồng bị cáo K nảy sinh ý định chiếm đoạt số tiền này nên đã thực hiện hành vi gian dối điện thoại về cho Công ty H giả vờ báo với Công ty là do ngân hàng đã nghỉ làm và mẹ ruột của bị cáo mất nên bị cáo phải về quê gấp, vài ngày nữa bị cáo sẽ nộp tiền vào tài khoản ngân hàng của Công ty H. Sau đó, bị cáo khóa máy điện thoại di động rồi bỏ trốn.

[3] Hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến tài sản hợp pháp của người khác. Khi thực hiện hành vi Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của bị hại, bị cáo đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình nhưng vì tham lam, vụ lợi, muốn chiếm đoạt tài sản của bị hại để trả nợ và tiêu xài cá nhân nên bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Tài sản bị cáo chiếm đoạt trị giá 50.000.000 đồng, là tình tiết định khung tăng nặng đối với bị cáo được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 175 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Bùi Vũ K phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 175 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[4] Xét hành vi phạm tội của bị cáo không chỉ trực tiếp xâm phạm đến tài sản hợp pháp của bị hại mà còn gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự tại địa phương; bên cạnh đó, sau khi phạm tội bị cáo bỏ trốn, gây khó khăn cho quá trình điều tra, xử lý vụ án; đến nay bị cáo vẫn chưa bồi thường thiệt hại cho bị hại. Do đó cần áp dụng hình phạt nghiêm, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù trong một khoảng thời gian nhất định để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 nên khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử có xem xét để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[6] Về vật chứng vụ án: 01 phiếu xuất kho bán hàng ghi ngày 25/12/2018 cho Công ty T (do ông Trần Văn L làm giám đốc) có chữ ký của Bùi Vũ K nhận tổng cộng 50.000.000 đồng, có xác nhận của Lợi (được lưu hồ sơ vụ án) nên bảo lưu hồ sơ vụ án.

[7] Về dân sự: Tại Cơ quan điều tra người đại diện hợp pháp của Công ty H yêu cầu bị cáo bồi thường cho Công ty H số tiền 50.000.000 đồng. Tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp của Công ty H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không rõ lý do nên Hội đồng xét xử quyết định tách phần dân sự ra để giải quyết bằng một vụ án dân sự khác khi Công ty H có yêu cầu theo quy định tại Điều 30, Điều 292 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[9] Trong số tiền 50.000.000 đồng K chiếm đoạt của Công ty H, K đã sử dụng 7.200.000 đồng để mua thuốc điều trị bệnh cho mẹ ruột là bà Nguyễn Thị Cà M. Do bà Muôi không biết số tiền này là do K phạm tội mà có nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không xử lý đối với bà Muôi là có cơ sở.

[10] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử xét chấp nhận quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát đề nghị về tội danh, hình phạt đối với bị cáo cũng như đề nghị xử lý vật chứng vụ án và dân sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 175; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Căn cứ vào Điều 30, khoản 2 Điều 136, Điều 292, Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Xử phạt bị cáo Bùi Vũ K 03 (ba) năm tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 22/12/2021.

Bảo lưu hồ sơ 01 (một) phiếu xuất kho bán hàng ghi ngày 25/12/2018 cho Công ty T (do ông Trần Văn L làm giám đốc) có chữ ký của Bùi Vũ K nhận tổng cộng 50.000.000 đồng, có xác nhận của ông Trần Văn Lợi.

Tách phần dân sự về yêu cầu bồi thường thiệt hại giữa Công ty H và bị cáo ra để giải quyết bằng một vụ án dân sự khác khi Công ty H có yêu cầu.

Bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày tính kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 108/2022/HS-ST

Số hiệu:108/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về