Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 106/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN THÀNH, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 106/2022/HS-ST NGÀY 27/12/2022 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 12 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 96/2022/TLST-HS, ngày 29 tháng 11 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 102/2022/QĐXXST- HS ngày 15/12/2022 đối với:

Bị cáo Hứa Văn V, sinh năm 1994.

Tên gọi khác: Không. Giới tính: Nam.

Nơi ở và HKTT: Thôn Chùa, xã H Sơn, huyện L, tỉnh B. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Sán Dìu. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ học vấn: Lớp 12/12. Họ và tên cha: Hứa Văn N, sinh năm 1xxx. Họ và tên mẹ: Nguyễn Thị H, sinh năm 1976. Gia đình bị cáo có 02 anh em, bị cáo là con lớn. Vợ: Ngô Quỳnh H, sinh năm 1982. Con: Có 02 con, con lớn sinh năm 2017, con nhỏ sinh 2021.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/9/2022 đến nay. Hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện T, tỉnh B (có mặt tại phiên toà).

Bị hại: Công ty cổ phần G.

Địa chỉ: Toà nhà VTV – số 8 Phạm Hùng, phường Mễ Trì, quận N, thành phố H.

Đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Hồng Q – Chức vụ Tổng giám đốc.

Người đại diện theo uỷ quyền tham gia tố tụng: Ông Ngô Quang L – Chuyên viên pháp lý. (đề nghị xét xử vắng mặt)

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Chị Ngô Quỳnh H, sinh năm 1982. (có mặt) Địa chỉ: Thôn Tú Tháp, xã Song Hồ, huyện T, tỉnh B.

2. Chị Hứa Thị C, sinh năm 1997. (vắng mặt) HKTT: Thôn An Hạ, xã A, huyện Đ, thành phố H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng giữa tháng 10/2021, Hứa Văn V, sinh năm 1994 trú tại thôn Chùa, xã H Sơn, huyện L, tỉnh B xin vào làm thử việc tại Công ty cổ phần G chi nhánh huyện T (gọi tắt là Công ty giao hàng) có địa chỉ tại số 731 đường Âu Cơ, thị trấn Hồ, huyện T, tỉnh B. Đến ngày 29/10/2021, V ký hợp đồng làm nhân viên giao hàng dịch vụ với công ty, công việc hàng ngày của V là đi giao những đơn hàng của người gửi đến người nhận, đồng thời thu hộ tiền từ người nhận về trả cho công ty để quyết toán cho người gửi. V giao đơn hàng nào sẽ được hưởng tiền theo đơn hàng đó. Theo quy định của công ty, khi giao hàng xong đến 14 giờ hàng ngày thì nhân viên giao hàng sẽ về công ty để chốt ca làm việc và bàn giao số tiền đã thu của khách hàng cho công ty. Ngày 02/11/2021, V được công ty giao cho công việc đi giao các bưu phẩm, bưu kiện cho khách hàng, gồm 15 đơn hàng/14 khách hàng và yêu cầu khi chuyển phát, gửi sẽ thu tiền đơn hàng của 12 khách. Quá trình giao hàng, V đã giao thành công 15 đơn hàng và thu tổng số tiền 12.619.450 đồng của 13 đơn hàng/12 khách hàng. Cụ thể:

1. A Phạm Văn Đ, sinh năm 1989, HKTT: Thôn Thanh Khê, xã Yên Nghĩa, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Tạm trú: Đông Côi, thị trấn Hồ, huyện T, tỉnh B đặt hai đơn hàng gồm: Đơn hàng thứ nhất anh Đ (tên khách hàng là khách, số điện thoại 0979.226.xxx) đặt trên mạng của cửa hàng Auto G gồm 25 đôi gạt mưa có giá trị là 3.300.000 đồng. Đơn hàng thứ hai anh Đ (tên khách hàng là anh D, số điện thoại 0979.226.xxx) đặt của một cửa hàng giao bán trên mạng (không nhớ tên) gồm các loại đồ chơi trưng bầy trên ô tô có giá trị 5.800.000 đồng. Tổng giá trị hai đơn hàng là 9.100.000 đồng, phí vận chuyển 57.500 đồng. V đã thu số tiền là 9.157.500 đồng.

2. A Nguyễn Thành T, sinh năm 1983 trú tại thôn Chè, xã Ninh Xá, huyện T, tỉnh B (tên khách hàng Nguyễn T, số điện thoại 0966.121.xxx) đặt trên tài khoản facebook đơn hàng của một tài khoản facebook (anh T không nhớ tên) gồm 01 lọ tinh dầu sả và 02 lọ tinh dầu quế có tổng giá trị là xxx.000 đồng. V đã thu số tiền là xxx.000 đồng.

3. Chị Đỗ Thị M, sinh năm 1978 trú tại thôn Dư Xá, xã Ninh Xá, huyện T, tỉnh B (tên khách D, số điện thoại 0334.204.xxx) đặt đơn hàng trên mạng của shop T (G), có địa chỉ tại quận T, thành phố H gồm 50 miếng mặt nạ nhau thai cừu; 40 miếng hút mỡ; 02 hộp bưởi Ketoslim có tổng giá trị là 730.000 đồng. V đã thu số tiền là 730.000 đồng.

4. Chị M P H, sinh năm 1990 trú tại thôn Bùi Xá, xã Ninh Xá, huyện T, tỉnh B (tên khách hàng M, số điện thoại 0918.856.xxx) đặt đơn hàng trên mạng của shop Lê Bích P ở quận T, thành phố H gồm 01 bộ quần áo có giá là 790.000 đồng, phí vận chuyển là 35.000 đồng. Tổng giá trị đơn hàng là 825.000 đồng. V đã thu số tiền là 825.000 đồng.

5. Chị Nguyễn Thị P A, sinh năm 2006 trú tại thôn Dư Xá, xã Ninh Xá, huyện T, tỉnh B (tên khách hàng P A, số điện thoại 0878.516.xxx) đặt đơn hàng của cửa hàng D có địa chỉ số 279 phố Đội Cấn, phường Ngọc Hà, quận B, thành phố H gồm quần lót nữ có giá 29.700 đồng, phí vận chuyển là 16.500 đồng. Tổng giá trị đơn hàng là 46.200 đồng. V đã thu số tiền là 46.200 đồng.

6. A Nguyễn Văn K, sinh năm 1974 trú tại thôn Dư Xá, xã Ninh Xá, huyện T, tỉnh B (tên khách hàng K, số điện thoại 0961.802.xxx) đặt đơn hàng của cửa hàng Tokyo, địa chỉ tại quận Hà Đông, thành phố H gồm 02 chiếc vòng cổ, có tổng giá trị là 3.000.000 đồng. V không thu tiền đơn hàng này.

7. Chị T Thị Tuyết N, sinh năm 1984 trú tại thôn Kênh, xã Ninh Xá, huyện T, tỉnh B (tên khách hàng N T, số điện thoại 0374.699.xxx) đặt đơn hàng giao bán trên mạng gồm 01 chiếc áo phao trị giá 270.000 đồng. V đã thu số tiền là 270.000 đồng..

8. Nguyễn Đức T, sinh năm 1972, trú tại thôn Dư Xá, xã Ninh Xá, huyện T, tỉnh B (tên khách hàng Đức T, số điện thoại 0xxx.441.xxx) đặt đơn hàng “03 gốc ngũ sắc cao to có nụ” giá trị 180.000 đồng. V đã thu số tiền là 180.000 đồng.

9. Anh Hoàng Huy T, sinh năm 1983 trú tại thôn Dư Xá, xã Ninh Xá, huyện T, tỉnh B (tên khách hàng Tmojito, số điện thoại 0936.889.xxx) đặt đơn hàng có ghi tên “LM1 Xanh M” (do lâu ngày nên anh T không nhớ đã mua hàng gì) có giá trị là 380.000 đồng. V đã thu số tiền là 380.000 đồng.

10. Phạm Thị Hoài, sinh năm 1992 trú tại thôn P Quan, xã Trí Quả, huyện T, tỉnh B (tên khách hàng P, số điện thoại 0xxx.592.692) đặt đơn hàng “Ruột chăn dày” có giá trị là 1.200.000 đồng, chỉ phải thu số tiền 150.000 đồng. V đã thu số tiền là 150.000 đồng.

11. Nguyễn Thị Thanh, sinh ngày 03/01/2004, trú tại thôn Dư Xá, xã Ninh Xá, huyện T, tỉnh B (có tên khách hàng Nguyễn Thanh) đặt đơn hàng là 01 chai bắp rang bơ có giá 111.000 đồng, chỉ phải thu số tiền 11.350 đồng. V đã thu số tiền là 11.350 đồng.

12. Nguyễn Thị Quỳnh M, sinh năm 1989, trú tại thôn Ngọc Nội, xã Trạm Lộ, huyện T, tỉnh B (có tên khách hàng Khongcamxuc M, số điện thoại 0963.353.xxx) đặt đơn hàng “Combo bộ 3 gió vải đựng đồ Yamazen-xám” có giá trị 427.000 đồng, phí vận chuyển 37.000 đồng. Tổng giá trị đơn hàng là 464.000 đồng.V đã thu số tiền là 464.000 đồng.

Nguyễn Thị P, sinh ngày 02/11/2005, trú tại thôn Dư Xá, xã Ninh Xá, huyện T, tỉnh B (tên khách hàng là Ng thị P, số điện thoại 0357.449.xxx) đặt đơn hàng “khung long hong 17” có giá trị 400.000 đồng. V không phải thu tiền đơn hàng này.

13. Nguyễn Thị Lệ Q, sinh năm 1999 trú tại thôn Dành, xã Ninh Xá, huyện T, tỉnh B (tên khách hàng Q, số điện thoại 0xxx.997.287) đặt đơn hàng “Set 04 kẹp tóc bé gái xinh xắn đáng yêu phong cách hàn quốc” có giá trị 9.000 đồng, số tiền phải thu là 6.400 đồng. V đã thu số tiền là 6.400 đồng.

Sau đó, V không quay lại Công ty giao hàng để chốt ca làm việc, bàn giao số tiền đã thu của khách mà đi về nhà rồi tiêu xài cá nhân hết số tiền 12.619.450 đồng. Đến khoảng 18 giờ ngày 03/11/2021, quản lý của công ty đã đến nhà V yêu cầu V trả cho công ty số tiền trên nhưng V chỉ trả cho công ty các đơn hàng chưa giao được cho khách, đồng thời V đã viết 01 bản cam kết sẽ trả số tiền trên cho công ty vào 19 giờ ngày 03/11/2021. Đến 19 giờ ngày 03/11/2021, Công ty không thấy V đến trả tiền nên đã nhiều lần liên lạc với V nhưng V không nghe máy. Sau đó V bỏ trốn khỏi nơi cư trú không ai liên lạc được để chiếm đoạt số tiền của công ty.

Với nội dung trên, tại bản Cáo trạng số 100/CTr-VKS ngày 28/11/2022 của viện kiểm sát nhân dân huyện T truy đã tố Hứa Văn V về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 1 Điều 175 của Bộ Luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo V khai nhận hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng đã truy tố, bị cáo thừa nhận do không có tiền tiêu sài cá nhân nên sau khi thu được số tiền hàng 12.619.450 đồng mà công ty giao cho bị cáo có trách nhiệm thu, bị cáo đã tiêu hết số tiền này sau đó bỏ trốn nhằm chiếm đoạt số tiền trên. Bị cáo thừa nhận Cáo trạng truy tố bị cáo về hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là có căn cứ, đúng với hành vi mà bị cáo đã thực hiện.

Trong phần tranh tụng, đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện T thực hành quyền công tố tại phiên tòa đã đưa ra chứng cứ để buộc tội Hứa Văn V phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” với giá trị tài sản chiếm đoạt là 12.619.450 đồng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo V phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Đề nghị áp dụng điểm a khoản 1 Điều 175; điểm b điểm i điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ Luật hình sự, xử phạt V từ 08 đến 11 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo. Do bị cáo không có công việc làm, không có thu nhập ổn định nên miễn áp dụng hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Số tiền 12.619.450 đồng mà bị cáo chiếm đoạt của Công ty giao hàng phía chị Hứa Thị C là em gái của V đã bồi thường cho công ty, công ty đã nhận đủ và không có yêu cầu gì nên không xem xét giải quyết.

Bị cáo V nhận tội và không tham gia tranh luận với đại diện viện kiểm sát mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt. Trong phần nói lời sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và miễn cho bị cáo hình phạt bổ sung.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét toàn diện chứng cứ, ý kiến của đại diện viện kiểm sát và của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 [1]. Lời khai của bị cáo Hứa Văn V tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được thể hiện trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, có căn cứ để xác định: Hứa Văn V là nhân viên hợp đồng dịch vụ giao hàng của Công ty cổ phần G chi nhánh huyện T. Ngày 02/11/2021, V được công ty giao cho 15 đơn hàng và yêu cầu khi chuyển phát, gửi sẽ thu tiền đơn hàng của 12 khách. Quá trình giao hàng, V đã giao thành công 15 đơn hàng và thu hộ Công ty tổng số tiền 12.619.450 đồng của 13 đơn hàng/12 khách hàng. Sau đó, do không có tiền tiêu xài cá nhân nên V đã nảy sinh ý định và chiếm đoạt số tiền trên. Vì vậy V không quay lại công ty để chốt ca và bàn giao tiền theo quy định. Sau đó, V đã bỏ trốn khỏi địa phương và tiêu xài cá nhân hết số tiền trên. Do vậy đã có đủ căn cứ kết luận bị cáo phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, tội phạm được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 175 của Bộ Luật hình sự, như nội dung Cáo trạng của viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2]. Xét về nguyên nhân, mục đích cũng như tính chất của hành vi phạm tội: Nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội là do bị cáo lười lao động, thích ăn chơi đua đòi, không lấy thu nhập chính đáng của bản thân làm nguồn sống mà lại lợi dụng vào việc được công ty giao cho nhận tiền của khách hàng để chiếm đoạt tiêu sài cá nhân. Về tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an, an ninh trên địa bàn. Bị cáo phạm tội do lười lao động, thích ăn chơi đua đòi, lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác để thoả mãn nhu cầu ích kỷ của bản thân nên cần phải có hình phạt tương xứng với tính chất mức độ hành vi của bị cáo để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[2]. Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Bị cáo có nhân thân tốt và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại khoản 1 Điều 48 Bộ Luật hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Sau khi phạm tội bị cáo cũng đã tự nguyện tác động gia đình bồi thường cho bị hại số tiền để khắc phục hậu quả nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b điểm s điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ Luật hình sự. Bị cáo sau khi phạm tội cũng đã ra đầu thú, phía bị hại có đơn đề nghị giảm nhẹ hình phạt, do vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ Luật hình sự. Đây là những tình tiết để Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

Xem xét các tình tiết của vụ án thì thấy, bị cáo mặc dù là người có nhân thân tốt, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ nhưng qua lời trình bày của phía chị H là vợ của bị cáo có mặt tại phiên toà thì thấy. Bị cáo là thanh niên thích lêu lổng, không chịu tu dưỡng rèn luyện bản thân, mải chơi game, sống buông thả đua đòi vi phạm pháp luật. Do đó cần có hình phạt cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để giáo dục, cải tạo đối với bị cáo để bị cáo có cơ hội cải tạo trở thành người có ích cho xã hội sau này.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có công việc ổn định, không có thu nhập thường xuyên nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[3]. Về trách nhiệm dân sự: Công ty cổ phần G đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không có yêu cầu gì nên không xem xét giải quyết.

[4]. Về vật chứng của vụ án: Đối với chiếc xe mô tô Honda Lead, BKS 99F1- xxxx, V sử dụng để đi giao hàng cho khách, quá trình điều tra xác định chủ sở hữu hợp pháp là chị Ngô Quỳnh H, sinh năm 1982, trú tại: thôn Tú Tháp, xã Song Hồ, huyện T, tỉnh B là vợ của V. Sau khi V chiếm đoạt tiền của Công ty giao hàng khoảng 02 tháng thì chị H đã bán chiếc xe trên cho một người không quen biết. Qua tra cứu chiếc xe trên không có trong cơ sở xe máy vật chứng. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T không đề cập xử lý là phù hợp.

[5]. Liên quan đến vụ án có: Đối với chị Hứa Thị C là em gái của V đã bồi thường thay cho V số tiền mà V đã chiếm đoạt, chị C không yêu cầu gì đối với V về số tiền này nên không xem xét giải quyết.

[6]. Về án phí: Bị cáo V phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bởi các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

 Tuyên bố bị cáo Hứa Văn V phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 175; điểm b điểm i điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ Luật hình sự. Điều 136; Điều 329 Bộ Luật tố tụng hình sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí của Tòa án, tuyên xử.

1. Xử phạt Hứa Văn V 08 (Tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 4/9/2022.

Tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án 27/12/2022 để đảm bảo thi hành án.

2. Về án phí: Buộc bị cáo V phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Bị cáo V, chị H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Công ty cổ phần G do ông Ngô Quang L đại diện theo uỷ quyền, chị Hứa Thị C có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

65
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 106/2022/HS-ST

Số hiệu:106/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Thành - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/12/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về
Bị cáo Hứa Văn V, sinh năm 1994, là nhân viên giao hàng của Công ty cổ phần G chi nhánh huyện T, tỉnh B. Ngày 02/11/2021, V được giao 15 đơn hàng và thu tiền của 12 khách hàng. V đã giao thành công 15 đơn hàng và thu được 12.619.450 đồng. Tuy nhiên, sau đó V không bàn giao tiền cho công ty mà đã chiếm đoạt số tiền trên.

Tại phiên tòa, V thừa nhận hành vi phạm tội và không tranh luận với đại diện viện kiểm sát. Đại diện viện kiểm sát đưa ra chứng cứ buộc tội V về tội "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản" và đề nghị mức án từ 8 đến 11 tháng tù.

Tòa nhận định hành vi của V nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản, cần phải có hình phạt cách ly để giáo dục, cải tạo. Tuy nhiên, V có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên được giảm nhẹ một phần hình phạt. Tòa không áp dụng hình phạt bổ sung vì V không có thu nhập ổn định.

Tòa tuyên phạt V 8 tháng tù, tính từ ngày tạm giữ 4/9/2022. Tiếp tục tạm giam V 45 ngày để thi hành án. V phải chịu 200.000 đồng án phí. Các bên có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án hoặc nhận được tống đạt bản án.