Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 101/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 101/2022/HS-PT NGÀY 20/07/2022 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 56/2022/TLPT-HS ngày 22 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo Phan Tuyết Th1 do có kháng cáo của bị cáo, kháng cáo của bị hại Phạm Thị Th2, Đinh Thị Nh1, Nguyễn Thị U, Võ Thị N1, Ngô Thị Đ1, Lương Thị Bé N2, Phạm Hồng Nh2, Phạm K O và kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Võ Thị H1 đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 12/2022/HS-ST ngày 22 tháng 02 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau.

- Bị cáo có kháng cáo:

Phan Tuyết Th1, sinh ngày 18/8/1976 tại Cà Mau; nơi cư trú: Ấp C, xã Kh, huyện Tr, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Minh Ch (đã chết) và bà Nguyễn Thị Đ; có chồng tên Trịnh Hoàng Gi (đã L1 hôn) và có 02 người con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 02/7/2019 đến ngày 01/8/2019 được gia đình bảo lĩnh. Bị cáo tại ngoại có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Nguyễn Văn Tr của Văn phòng Luật sư Nguyễn Văn Tr thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Cà Mau. Luật sư có mặt.

- Bị hại có kháng cáo, gồm:

1. Bà Phạm Thị Th2, sinh năm 1985 (có mặt)

2. Bà Đinh Thị Nh1, sinh năm 1957 (có mặt)

3. Bà Nguyễn Thị U (tên gọi khác là Lẹ), sinh năm 1930 (có mặt)

4. Bà Võ Thị N1, sinh năm 1962 (có mặt)

5. Bà Ngô Thị Đ1, sinh năm 1960 (có mặt)

6. Bà Lương Thị Bé N2, sinh năm 1969 (có mặt)

7. Bà Phạm Hồng Nh2, sinh năm 1981 (có mặt)

8. Bà Phạm K O, sinh năm 1979 (có mặt)

Cùng nơi cư trú: Ấp C, xã Kh, huyện Tr, tỉnh Cà Mau

- Bị hại không có kháng cáo, gồm:

1. Bà Đoàn Thị Q1, sinh năm 1976 (vắng mặt)

2. Bà Trần Thị Bích Ng, sinh năm 1984 (vắng mặt)

3. Bà Lê Ngọc K, sinh năm 1974 (vắng mặt)

4. Bà Võ Thị V, sinh năm1982 (vắng mặt)

5. Bà Nguyễn Thị Nh1, sinh năm 1950 (vắng mặt)

6. Bà Nguyễn Thị T1, sinh năm 1981 (vắng mặt)

7. Bà Trần Thị M, sinh năm 1958 (vắng mặt)

8. Bà Nguyễn Thị Đ2, sinh năm 1963 (vắng mặt)

9. Bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1968 (có mặt)

10. Bà Đồng Kim Th3, sinh năm 1970 (vắng mặt)

11. Bà Đặng Thị T2, sinh năm 1958 (vắng mặt)

12. Bà Nguyễn Thị Kh, sinh năm 1979 (vắng mặt)

13. Bà Lê Thị Q2, sinh năm 1987 (vắng mặt)

14. Bà Lê Thị H, sinh năm 1987 (vắng mặt)

15. Bà Kiên Thị Chanh L1, sinh năm 1986 (vắng mặt)

16. Bà Trương Thị Ng, sinh năm 1957 (vắng mặt)

17. Bà Võ Thị A, sinh năm 1961 (vắng mặt)

18. Bà Trần Thị Th4, sinh năm 1984 (vắng mặt)

Cùng nơi cư trú: Ấp C, xã Kh, huyện Tr, tỉnh Cà Mau.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có kháng cáo: Bà Võ Thị H1, sinh năm 1965 (vắng mặt) Nơi cư trú: Ấp C, xã K, huyện Tr, tỉnh Cà Mau.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có kháng cáo (không được Tòa án triệu tập), gồm:

1. Bà Võ Bích Ph, sinh năm 1982

2. Bà Trịnh Hồng L2, sinh năm 1979

3. Bà Đặng Thùy D, sinh năm 1982

4. Bà Nguyễn Diệu H, sinh năm 1983

5. Bà Lý Thị Th5, sinh năm 1982

6. Bà Trần Thị X, sinh năm 1957

7. Bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1958 Cùng trú: Ấp C, xã Kh, huyện Tr, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 06/02/2012, Ban thường vụ Hội Liên hiệp Phụ nữ xã Khánh Bình Tây, huyện Trần Văn Thời chuẩn y kết quả bầu bà Ngô Thị Đ1 làm Tổ trưởng, Phan Tuyết Th1 làm thư ký Tổ Phụ nữ số 7 Chi Hội Phụ nữ ấp C, xã Kh. Thực hiện chủ trương của Hội Liên hiệp Phụ nữ cấp trên, Tổ Phụ nữ số 7 ấp C, xã Kh được huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong hội viên để cho hội viên vay phát triển kinh tế, với lãi suất không quá 1%/tháng. Do mức lãi suất này thấp nên hội viên trong Tổ phụ nữ thống nhất nâng lên 3%/tháng, nguồn vốn này do hội viên tự nguyện đóng góp, Tổ phụ nữ tự quản lý, tự xét duyệt cho tổ viên trong tổ vay trên nguyên tắc dân chủ, công khai, có mở sổ theo dõi thu - chi. Các hội viên vay tiền cao nhất không vượt quá 10.000.000 đồng/người, thời gian trả vốn và lãi không quá 3 tháng, trường hợp có hoàn cảnh khó khăn có thể kéo dài thời hạn trả vốn nhưng không quá 6 tháng. Việc góp vốn và cho vay tiền diễn ra vào ngày 19 dương lịch hàng tháng tại nhà Th1 (ở ấp C, xã Kh, huyện Tr, tỉnh Cà Mau). Th1 làm thư ký được bà Đ1 và tập thể Tổ Phụ nữ số 7 phân công kiêm thêm thủ quỹ làm công việc nhận và quản lý tiền hội viên gửi, cho vay vốn và trả lãi cho hội viên. Tuy nhiên, bà Đ1 không có kiểm tra việc Th1 cho vay và sổ sách thu - chi của Th1; Th1 sử dụng nhiều cuốn sổ theo dõi thu - chi, không có lưu giữ đầy đủ. Quá trình huy động vốn, đến khoảng năm 2015 do Th1 cần tiền để chi xài nên Th1 đã tự ý lấy tiền do các các hội viên gửi vào Tổ phụ nữ số 7 giao cho Th1 quản lý để chi xài cá nhân, trả nợ và đóng hụi chết của riêng Th1 mà không cho các hội viên biết. Th1 còn sử dụng số tiền các hội viên gửi để trả tiền lãi hàng tháng cho các hội viên nhằm để họ không nghi ngờ Th1 đã chi xài tiền của hội viên gửi. Đến giữa năm 2018, hội viên nhận thấy số tiền được gửi vào tổ rất nhiều nhưng Th1 lại cho vay rất ít, nghi ngờ Th1 có hành vi gian dối chiếm đoạt tiền hội viên nên yêu cầu Th1 công khai số tiền gửi vào tổ và số tiền cho vay thì Th1 nói bận việc, hẹn đến cuối năm 2018 sẽ công khai. Việc huy động vốn lãi suất 3%/tháng bị Hội Liên hiệp Phụ nữ xã Khánh Bình Tây phát hiện nên yêu cầu bà Đ1 chấn chỉnh hạ mức lãi suất huy động về 1%/tháng. Bà Đ1 triển khai lại cho hội viên mức lãi suất này, do lãi suất không cao nên nhiều hội viên xin rút vốn đã góp. Khoảng tháng 8/2018 bà Đ1 không cho hội viên gửi tiền vào Tổ phụ nữ, hội viên nào rút lại vốn thì bà Đ1 yêu cầu Th1 gom tiền trả lại cho hội viên đã gửi nhưng Th1 trả tiền cho hội viên rất ít chủ yếu là đóng lãi cho hội viên; Th1 nói dối là nhiều hội viên vay tiền chưa trả vốn nên không có tiền trả lại, nhưng thực tế tiền vốn hội viên góp đã bị Th1 chiếm đoạt chi xài cá nhân. Đến tháng 12/2018 các hội viên đòi rút vốn và yêu cầu Th1 công khai thu - chi tiền gửi thì Th1 nói đến kỳ họp tháng 01/2019 sẽ công khai. Tuy nhiên, đến thời điểm họp thì Th1 bỏ đi khỏi địa phương, không báo cáo và không bàn giao sổ theo dõi việc huy động vốn và cho vay tiền. Trên cơ sở đối chiếu các tài liệu về việc nhận tiền góp vốn và cho vay vốn, biên nhận Th1 nhận tiền hội viên gửi vào Tổ phụ nữ số 7, lời trình bày của hội viên chứng minh được đến thời điểm Th1 bỏ đi khỏi địa phương thì Th1 còn quản lý số tiền 362.300.000 đồng, huy động của 33 hội viên gửi vào Tổ này, cụ thể:

1/ Võ Thị N1 10.300.000 đồng.

2/ Lương Thị Bé N2 13.000.000 đồng.

3/ Đoàn Thị Q1 5.000.000 đồng.

4/ Phạm Hồng Nh2 10.500.000 đồng.

5/ Phạm K O 55.000.000 đồng.

6/ Phạm Thị Th2 10.000.000 đồng.

7/ Trần Thị Bích Ng 2.000.000 đồng.

8/ Lê Ng K 70.000.000 đồng.

9/ Đinh Thị Nh1 60.000.000 đồng.

10/ Ngô Thị Đ1 1.300.000 đồng.

11/ Võ Thị V 500.000 đồng.

12/ Nguyễn Thị Nh1 800.000 đồng.

13/ Nguyễn Thị T1 800.000 đồng.

14/ Trần Thị M 200.000 đồng.

15/ Nguyễn Thị Đ2 200.000 đồng.

16/ Võ Bích Ph 1.000.000 đồng.

17/ Nguyễn Thị S 80.000.000 đồng.

18/ Võ Thị H1 1.700.000 đồng.

19/ Đồng Kim Th3 700.000 đồng.

20/ Đặng Thị T2 500.000 đồng.

21/ Trịnh Hồng L2 600.000 đồng.

22/ Đặng Thùy D 1.000.000 đồng.

23/ Nguyễn Diệu H 800.000 đồng.

24/ Nguyễn Thị Kh 500.000 đồng.

25/ Lê Thị Q2 100.000 đồng.

26/ Lê Thị H 100.000 đồng.

27/ Kiên Thị Chanh L1 200.000 đồng.

28/ Trương Thị Ng 2.000.000 đồng.

29/ Lý Thị Th5 1.000.000 đồng.

30/ Trần Thị X 1.300.000 đồng.

31/ Võ Thị A 1.000.000 đồng.

32/ Trần Thị Th4 200.000 đồng.

33/ Nguyễn Thị Lẹ (Nguyễn Thị U) 30.000.000 đồng.

Trong đó, số tiền Th1 cho hội viên vay đến thời điểm Th1 bỏ đi khỏi địa phương chưa thu hồi 21.000.000 đồng, cụ thể:

1/ Lê Ng K 3.000.000 đồng.

2/ Võ Bích Ph 1.000.000 đồng.

3/ Võ Thị H1 2.000.000 đồng.

4/ Trịnh Hồng L2 1.000.000 đồng.

5/ Đặng Thùy D 4.000.000 đồng.

6/ Nguyễn Diệu H 2.000.000 đồng.

7/ Lý Thị Th5 4.000.000 đồng.

8/ Trần Thị X 3.000.000 đồng.

9/ Nguyễn Thị S 1.000.000 đồng.

Số tiền còn lại Th1 chiếm đoạt 341.300.000 đồng, không có khả năng thanh toán. Tổng số tiền 21.000.000 đồng Th1 cho hội viên vay chưa thu hồi đến thời điểm Th1 đi khỏi địa phương, trong đó có những hội viên vay số tiền bằng hoặc vượt quá số tiền họ đã góp vốn nên Th1 không chiếm đoạt tiền của họ, cụ thể như:

1/ Võ Bích Ph góp vốn 1.000.000 đồng, vay 1.000.000 đồng.

2/ Võ Thị H1 góp vốn 1.700.000 đồng, vay 2.000.000 đồng.

3/ Trịnh Hồng L2 góp vốn 600.000 đồng, vay 1.000.000 đồng.

4/ Đặng Thùy D góp vốn 1.000.000 đồng, vay 4.000.000 đồng.

5/ Nguyễn Diệu H góp vốn 800.000 đồng, vay 2.000.000 đồng.

6/ Lý Thị Th5 góp vốn 1.000.000 đồng, vay 4.000.000 đồng.

7/ Trần Thị X 1.300.000 đồng, vay 3.000.000 đồng.

8/ Nguyễn Thị S không còn tiền góp vốn, nhưng vay 1.000.000 đồng.

Tổng số tiền các hội viên này vay vượt quá số tiền họ góp vốn là 10.600.000 đồng và được lấy ra cho vay từ số tiền góp vốn của các hội viên khác (do không xác định được cụ thể của hội viên nào nên số tiền của từng hội viên được đem cho vay trong tổng số 10.600.000 đồng nêu trên được tính căn cứ vào tỷ lệ phần vốn góp của họ). Do đó, số tiền Th1 chiếm đoạt của các hội viên khác phải thấp hơn số tiền vốn góp mà những hội viên đã gửi cho Th1 quản lý (do được lấy ra cho vay như đã nêu trên). Đối với Lê Ng K số tiền góp vốn là 70.000.000 đồng, vay 3.000.000 đồng nên số tiền Th1 chiếm đoạt của K được xác định sau khi đối trừ với số tiền K đã vay. Hiện nay, Tổ phụ nữ số 7 đã thu hồi lại số tiền Th1 đã cho vay được số tiền 18.000.000 đồng, còn 3.000.000 đồng do Trần Thị X vay thì chưa thu hồi.

Tổng số tiền các hội viên góp vốn do Th1 quản lý là 362.300.000 đồng, Th1 cho vay ra 21.000.000 đồng; còn lại Th1 chiếm đoạt tổng số tiền 341.300.000 đồng, cụ thể của từng người như sau:

1/ Võ Thị N1 9.989.741 đồng.

2/ Lương Thị Bé N2 12.608.411 đồng.

3/ Đoàn Thị Q1 4.849.389 đồng.

4/ Phạm Hồng Nh2 10.183.717 đồng.

5/ Phạm K O 53.343.279 đồng.

6/ Phạm Thị Th2 9.698.778 đồng.

7/ Trần Thị Bích Ng 1.939.756 đồng.

8/ Lê Ng K 64.981.813 đồng.

9/ Đinh Thị Nh1 58.192.668 đồng.

10/ Ngô Thị Đ1 1.260.841 đồng.

11/ Võ Thị V 484.939 đồng.

12/ Nguyễn Thị Nh1 775.902 đồng.

13/ Nguyễn Thị T1 775.902 đồng.

14/ Trần Thị M 193.976 đồng.

15/ Nguyễn Thị Đ2 193.976 đồng.

16/ Nguyễn Thị S 77.590.224 đồng.

17/ Đồng Kim Th3 678.914 đồng.

18/ Đặng Thị T2 484.939 đồng.

19/ Nguyễn Thị Kh 484.939 đồng.

20/ Lê Thị Q2 96.988 đồng.

21/ Lê Thị H 96.988 đồng.

22/ Kiên Thị Chanh L1 193.976 đồng.

23/ Trương Thị Ng 1.939.756 đồng.

24/ Võ Thị A 969.878 đồng.

25/ Trần Thị Th4 193.976 đồng.

26/ Nguyễn Thị Lẹ (Nguyễn Thị U) 29.096.334 đồng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 12/2022/HS-ST ngày 22 tháng 02 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau đã quyết định:

Căn cứ khoản 3 Điều 175; Điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Th1 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Buộc bị cáo phải trả cho các bị hại với số tiền như sau:

- Trả cho bà Phạm Thị Th2 3.098.778 đồng;

- Trả cho bà Đinh Thị Nh1 36.592.608 đồng;

- Trả cho bà Nguyễn Thị U (Lệ) 10.196.334 đồng;

- Trả cho bà Phạm Hồng Nh2 2.308.717 đồng;

- Trả cho bà Phạm K O 29.543.279 đồng.

Buộc bị hại và người liên quan phải trả cho bị cáo với số tiền như sau:

- Bà Võ Thị N1 trả 2.508.259 đồng;

- Bà Ngô Thị Đ1 trả 533.159 đồng;

- Bà Lương Thị Bé N2 trả 651.589 đồng;

- Bà Võ Thị H1 trả 1.785.000 đồng Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên buộc bị cáo phải trả tiền cho các bị hại còn lại và buộc các bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác trong vụ án, xử lý tiền thi hành án, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 04/3/2022, bị cáo kháng cáo cho rằng không phạm tội nên không đồng ý bồi thường cho bị hại;

Ngày 03/3/2022, bà Phạm Thị Th2 kháng cáo về phần trách nhiệm dân sự, không đồng ý với quyết định của cấp sơ thẩm về việc buộc bị cáo phải trả cho bà Th2 số tiền 3.098.778 đồng. Bà Th2 yêu cầu bị cáo phải trả số tiền 10 triệu đồng mà bà Th2 đã góp vốn vào tổ và tiền lãi suất tính từ ngày bị cáo rời khỏi địa phương.

Ngày 03/3/2022, bà Đinh Thị Nh1 kháng cáo không đồng ý với quyết định của cấp sơ thẩm buộc bị cáo trả tiền cho bà Nh1. Bà Nh1 yêu cầu buộc bị cáo Th1 phải trả phần vốn 60 triệu đồng và lãi suất từ khi Th1 bỏ địa phương đi cho đến nay.

Ngày 03/3/2022 bà Nguyễn Thị U (Lẹ) kháng cáo không đồng ý với quyết định của cấp sơ thẩm buộc bị cáo Th1 phải trả cho bà Lẹ số tiền 10.196.334 đồng. Yêu cầu buộc bị cáo phải trả tiền vốn là 30 triệu đồng và lãi suất từ khi vay.

Ngày 03/3/2022 bà Võ Thị N1 kháng cáo không đồng ý trả lại cho bị cáo 2.508.259 đồng theo như quyết định của cấp sơ thẩm. Bà N1 không cho bị cáo vay mà cho tổ vay số tiền 10.300.000 đồng.

Ngày 03/3/2022 bà Ngô Thị Đ1 kháng cáo không đồng ý trả cho bị cáo số tiền 533.159 đồng theo như quyết định của cấp sơ thẩm. Bà Đ1 không cho bị cáo vay mà cho tổ vay số tiền 1.300.000 đồng. Nay bà Đ1 yêu cầu bị cáo phải trả vốn và lãi từ khi bỏ đi đến nay.

Ngày 03/3/2022 bà Võ Thị H1 kháng cáo không đồng ý trả cho bị cáo số tiền 1.785.000 đồng theo như quyết định của cấp sơ thẩm, lý do bà H1 không cho bị cáo vay. Bà H1 yêu cầu buộc bị cáo trả vốn 1.700.000 đồng và tiền lãi tính từ khi bị cáo bỏ đi.

Ngày 03/3/2022 bà Lương Thị Bé N2 kháng cáo không đồng ý trả cho bị cáo số tiền 651.589 đồng theo như án sơ thẩm, buộc bị cáo phải trả tiền vốn vay là 13 triệu đồng, bà N2 không cho bị cáo vay.

Ngày 03/3/2022 bà Phạm Hồng Nh2 kháng cáo không đồng ý với cấp sơ thẩm buộc bị cáo trả cho bà Nh2 số tiền 2.308.717 đồng, vì bà Nh2 cho tổ vay số tiền 10.500.000 đồng vốn.

Ngày 03/3/2022 bà Phạm K O kháng cáo không đồng ý với số tiền cấp sơ thẩm buộc bị cáo trả cho bà O là 29.543.279 đồng. Bà O yêu cầu buộc bị cáo phải trả khoản tiền vốn vay là 55 triệu đồng mà bà góp vào tổ.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau: Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 355; khoản 1 Điều 358 của Bộ luật Tố tụng hình sự, hủy Bản án hình sự sơ thẩm số 12/2022/HS-ST ngày 22 tháng 02 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau để điều tra lại theo thủ tục chung. Lý do, cấp sơ thẩm chưa điều tra làm rõ có hay không dấu hiệu bị cáo lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản; Cấp sơ thẩm xác định số tiền chiếm đoạt chưa đúng, chưa làm rõ mức lãi suất huy động và mức lãi suất cho vay là bao nhiêu, chưa làm rõ số tiền lãi 177.700.000 đồng Th1 trả cho các hội viên được lấy từ nguồn tiền nào, đối với số tiền vốn cho vay hợp lệ 21 triệu đồng chưa làm rõ lãi suất bao nhiêu, ai thu, thu bao nhiêu và sử dụng vào việc gì, có nhập quỹ hay bị Th1 chiếm đoạt. Do hủy án sơ thẩm nên không xem xét kháng cáo của người kháng cáo.

- Luật sư bào chữa cho bị cáo trình bày: Thống nhất với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau đề nghị hủy án sơ thẩm để điều tra lại.

- Bà Th2 trình bày: Yêu cầu bị cáo trả phần vốn góp là 10 triệu đồng và phần lãi tính từ khi bị cáo bỏ đi đến nay. Không đồng ý với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau.

- Bà Nh1 trình bày: Yêu cầu bị cáo trả phần vốn góp là 60 triệu đồng và phần lãi tính từ khi bị cáo bỏ đi đến nay. Không đồng ý với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau.

- Bà U trình bày: Yêu cầu bị cáo trả phần vốn góp là 30 triệu đồng và phần lãi tính từ khi bị cáo bỏ đi đến nay. Không đồng ý với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau.

- Bà Nh2 trình bày: Yêu cầu bị cáo trả phần vốn góp là 10,5 triệu đồng và phần lãi tính từ khi bị cáo bỏ đi đến nay. Không đồng ý với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau.

- Bà O trình bày: Yêu cầu bị cáo trả phần vốn góp là 55 triệu đồng và phần lãi tính từ khi bị cáo bỏ đi đến nay. Không đồng ý với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau.

- Bà N1 trình bày: Yêu cầu bị cáo trả phần vốn góp là 10,3 triệu đồng và phần lãi tính từ khi bị cáo bỏ đi đến nay. Không đồng ý với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau.

- Bà Đ1 trình bày: Yêu cầu bị cáo trả phần vốn góp là 1,3 triệu đồng và phần lãi tính từ khi bị cáo bỏ đi đến nay. Không đồng ý với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau.

- Bà N2 trình bày: Yêu cầu bị cáo trả phần vốn góp là 13 triệu đồng và phần lãi tính từ khi bị cáo bỏ đi đến nay. Không đồng ý với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau.

- Lời nói sau cùng của bị cáo Th1: Quá trình quản lý vốn góp của các hội viên trong Tổ phụ nữ số 7, tính đến ngày 19/12/2018, thì bị cáo đã trả được cho các hội viên 169.972.000 đồng vốn và 137.000.000 đồng lãi, tổng cộng vốn và lãi bị cáo đã trả là 306.972.000 đồng. Do đó, đề nghị xem lại số tiền bị cáo chiếm đoạt và tội danh mà bị cáo thực hiện.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Ngày 06/02/2012, Ban thường vụ Hội Liên hiệp phụ nữ (Hội LHPN) xã Khánh Bình Tây, huyện Trần Văn Thời chuẩn y kết quả bầu bà Ngô Thị Đ1 làm Tổ trưởng, Phan Tuyết Th1 làm thư ký Tổ Phụ nữ số 7 Chi Hội Phụ nữ ấp C, xã Khánh Bình Tây. Ngoài ra, Th1 còn được bà Đ1 và tập thể Tổ Phụ nữ số 7 phân công kiêm thêm thủ quỹ làm công việc nhận và quản lý tiền hội viên gửi, cho vay vốn, Th4 và trả lãi cho hội viên. Việc phân công chức trách, nhiệm vụ cho Th1 là do tập thể quy định. Tại Công văn số 21/BC-BTV ngày 26/4/2021 của Hội LHPN huyện Trần Văn Thời cung cấp thì chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thư ký, Thủ quỹ tổ phụ nữ không có văn bản quy định. Theo Kế hoạch số 15/KH-BTV ngày 03/4/2013 (bút lục số 29) của Ban Thường vụ Hội LHPN tỉnh Cà Mau và Kế hoạch số 06/KH-BTV ngày 08/4/2013 của Ban Thường vụ Hội LHPN huyện Trần Văn Thời hướng dẫn vận động, quản lý nguồn tiết kiệm tại chi, tổ phụ nữ nhiệm kỳ 2012-2017 (bút lục số 30-31) quy định tiền gửi tiết kiệm lãi suất bằng 0% (không có lãi), vay tiền tiết kiệm lãi suất không quá 1%/tháng. Nhưng thực tế, lãnh đạo và tập thể Tổ phụ nữ số 7 thống nhất huy động vốn của các hội viên trong tổ với lãi suất 3% là thực hiện trái chủ trương của Hội liên hiệp phụ nữ cấp trên. Trong quá trình huy động vốn, Th1 có giao dịch với các hội viên thông qua việc nhận vốn, thu lãi và trả lãi cho các hội viên trong tổ. Hiện nay Tổ phụ nữ số 7 đã giải thể.

[2] Quá trình điều tra, tại biên bản ghi lời khai, biên bản đối chiếu số tiền góp vốn, biên nhận tiền, biên bản hỏi cung bị can, thể hiện: Vào khoảng năm 2015, Th1 thiếu nợ bên ngoài, hốt hụi phải đóng hụi chết, lo cho con đi học. Th1 sử dụng nguồn tiền của hội viên góp vốn vào Tổ phụ nữ số 7 để trả nợ bên ngoài, đóng hụi chết mà không cho các hội viên trong tổ biết. Ngoài ra, Th1 còn sử dụng số tiền của các hội viên gửi vào tổ để trả lãi hàng tháng cho họ, mục đích để cho các hội viên không phát hiện Th1 sử dụng tiền của tổ. Th1 biết rõ với thu nhập của gia đình thì không có khả năng chi trả lại tiền cho các hội viên trong tổ mà Th1 sử dụng. Đến tháng 12 năm 2018, do áp lực của hội viên đòi rút vốn mà Th1 không còn khả năng chi trả. Đến tháng 01 năm 2019, Th1 đi khỏi địa phương mà không bàn giao sổ sách theo dõi và không bàn giao tiền cho Tổ phụ nữ số 7. Các hội viên góp vốn bằng tiền vào Tổ phụ nữ số 7 do Th1 nhận quản lý, mục đích cho các hội viên trong tổ vay nhằm thực hiện chủ trương phụ nữ giúp nhau làm kinh tế gia đình. Việc bị cáo khai không còn khả năng chi trả và đi khỏi địa phương là chiếm đoạt trái phép tiền của các hội viên, vi phạm pháp luật hình sự.

[3] Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 02/2021/HS-PT ngày 12/01/2021, Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau hủy Bản án hình sự sơ thẩm số 69/2020/HS-ST ngày 27/8/2020 của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, trong đó có lý do cấp sơ thẩm chưa làm rõ có hay không dấu hiệu bị cáo lạm dụng chức vụ, quyề hạn chiếm đoạt tài sản, chưa chứng minh đầy đủ tổng nguồn tiền huy động vốn góp do bị cáo Th1 thu vào quản lý và thực tế chi ra là bao nhiêu. Các khoản gồm: Thời gian từng khoản tiền của 33 hội viên góp vào, khoản tiền cho vay, khoản tiền thu lãi vay, khoản tiền chi trả lãi cho các hụi viên góp vốn. Quá trình điều tra lại xác định bị cáo không có lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản, không xác định được tổng số tiền của hội viên gửi vào, cho vay, tính lãi, trả lãi tại Tổ phụ nữ số 7 (bút lục số 1073- 1075). Do đó, việc hủy án sơ thẩm để điều tra xác định lại hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn của bị cáo cũng như số tiền lãi thu được từ 21 triệu đồng vốn mà bị cáo cho 09 hội viên là không thể điều tra khắc phục được. Đối với số tiền lãi 177.700.000 đồng trả cho các hội viên góp vốn vào tổ, quá trình điều tra, bị cáo thừa nhận nguồn tiền này được lấy ra từ phần vốn góp của các hội viên.

[4] Tại Sổ vay vốn nội lực do bị cáo quản lý, được thu thập có tại hồ sơ vụ án, thể hiện bị cáo nhiều lần vay tiền của tổ với số tiền 10 triệu, 20 triệu và thể hiện là bị cáo đã trả xong trước khi đi khỏi địa phương, bị cáo không còn vay số tiền nào của tổ (bút lục 401-402). Tại phiên tòa, bị cáo cho rằng đã trả vốn và lãi cho các hội viên trong thời gian tính đến thời điểm ngày 19/12/2018, thì bị cáo đã trả được cho các hội viên 169.972.000 đồng vốn và 137.000.000 đồng lãi, tổng cộng vốn và lãi bị cáo đã trả trong thời gian làm thủ quỹ tại Tổ phụ nữ số 7 là 306.972.000 đồng. Tuy nhiên, bị cáo không có gì chứng minh việc thanh toán này trong khi các hội viên góp vốn vào Tổ phụ nữ số 7 không thừa nhận, nên trình bày của bị cáo không được chấp nhận.

[5] Trên cơ sở lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra (bút lục số 69-76; 83;

262-263) cũng như lời khai của các bị hại, xác định tính đến thời điểm bị cáo đi khỏi địa phương có 33 hội viên góp vốn vào tổ với số tiền là 362.300.000 đồng, khấu trừ 21 triệu đồng bị cáo cho 09 hội viên vay hợp lệ, còn lại bị cáo chiếm đoạt số tiền 341.300.000 đồng là có căn cứ.

[6] Với những tình tiết nêu trên, Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời đã xét xử bị cáo Th1 về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo khoản 3 Điều 175 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, không oan cho bị cáo.

[7] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thuộc trường hợp rất nghiêm trọng, xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản hợp pháp của các hội viên tổ phụ nữ được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương. Quá trình xét xử, cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo gồm: Đã khắc phục được một phần thiệt hại; Gia đình có nhiều người có công với cách mạng (có bà nội tên Trịnh Thị Ng là Bà Mẹ Việt Nam anh hùng, cha ruột là thương binh hạng 2/4 được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng ba, có cô ruột tên Phan Thị R và bác ruột tên Phan Thanh Gi là liệt sĩ). Từ đó xử phạt bị cáo 05 năm 06 tháng tù là tương xứng.

[8] Với các tình tiết nêu trên, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau cũng như kháng cáo, ý kiến bào chữa của luật sư tại phiên tòa đề nghị hủy án sơ thẩm để điều tra lại không được chấp nhận.

[9] Xét kháng cáo về phần trách nhiệm dân sự của bị cáo, bà Th2, bà Nh1, bà Lẹ, bà N1, bà Đ1, bà N2, bà Nh2, bà O và bà H1:

Bị cáo chiếm đoạt 341.300.000 đồng, nên giao dịch giữa bị cáo và những hội viên trong việc nhận tiền và trả lãi là vô hiệu. Đối với số tiền 21 triệu đồng bị cáo cho 09 hội viên vay lại, trong đó, có những hội viên vay số tiền bằng hoặc vượt quá số tiền đã góp nên bị cáo không chiếm đoạt tiền của họ, cụ thể như: Bà Ph góp vốn 1.000.000 đồng, vay 1.000.000 đồng; Bà H1 góp vốn 1.700.000 đồng, vay 2.000.000 đồng, vượt vốn 300.000 đồng; Bà L2 góp vốn 600.000 đồng, vay 1.000.000 đồng, vượt vốn 400.000 đồng; Bà D góp vốn 1.000.000 đồng, vay 4.000.000 đồng, vượt vốn 3.000.000 đồng; Bà H góp vốn 800.000 đồng, vay 2.000.000 đồng, vượt vốn 1.200.000 đồng; Bà Th5 góp vốn 1.000.000 đồng, vay 4.000.000 đồng, vượt vốn 3.000.000 đồng; Bà X góp vốn 1.300.000 đồng, vay 3.000.000 đồng, vượt vốn 1.700.000 đồng; Bà S không còn tiền góp vốn nhưng vay 1.000.000 đồng, vượt vốn 1.000.000 đồng. Số tiền vay vượt vốn góp của các hội viên là 10.600.000 đồng và được lấy ra cho vay từ số tiền góp vốn của hội viên khác, nhưng không xác định được cụ thể của hội viên nào. Do đó, số tiền của từng hội viên được đem cho vay trong tổng số 10.600.000 đồng này được tính căn cứ vào tỷ lệ phần vốn góp của từng hội viên. Từ đó, số tiền bị cáo chiếm đoạt của hội viên phải thấp hơn số tiền vốn góp mà những hội viên đã gửi cho bị cáo quản lý. Đối với bà Lê Ng K số tiền góp vốn là 70.000.000 đồng, vay 3.000.000 đồng, nên số tiền bị cáo chiếm đoạt của bà K cũng được xác định sau khi đối trừ với số tiền bà K đã vay và số tiền của bà K bị Th1 đem đi cho hội viên khác vay. Vì vậy, căn cứ số tiền từng hội viên góp vốn, đối trừ với số tiền hội viên vay và số tiền Th1 lấy ra cho các hội viên vay được xác định theo tỷ lệ phần vốn góp, có cơ sở xác định số tiền Th1 chiếm đoạt của từng người như cấp sơ thẩm xác định là đúng.

Trên cơ sở số tiền vốn mà các hội viên góp vốn vào tổ được xác định lại (tính theo tỷ lệ) khấu trừ với số tiền lãi đã nhận (177.700.000 đồng) và tiền bị cáo khắc phục được 5.200.000 đồng, số tiền chênh lệch bị cáo phải trả hoặc được nhận lại như cấp sơ thẩm xác định là phù hợp. Trong đó:

- Đối với bà Th2, số tiền góp vốn là 10 triệu đồng, số tiền bị chiếm đoạt sau khi tính tỷ lệ là 9.698.778 đồng, nhận lãi là 6,6 triệu đồng, bị cáo phải trả số tiền chênh lệch là 3.098.778 đồng;

- Đối với bà Nh1, số tiền góp vốn là 60.000.000 đồng, số tiền bị chiếm đoạt sau khi tính tỷ lệ là 58.192.668 đồng, số tiền nhận lãi là 21.600.000 đồng, bị cáo phải trả số tiền chênh lệch là 36.592.668 đồng;

- Đối với bà Lẹ, số tiền góp vốn là 30.000.000 đồng, số tiền bị chiếm đoạt sau khi tính tỷ lệ là 29.096.334 đồng, số tiền nhận lãi là 18.900.000 đồng, bị cáo phải trả số tiền chênh lệch là 10.196.334 đồng;

- Đối với bà O, số tiền góp vốn là 55.000.000 đồng, số tiền bị chiếm đoạt sau khi tính tỷ lệ là 53.343.279 đồng, số tiền nhận lãi là 23.800.000 đồng, bị cáo phải trả số tiền chênh lệch là 29.543.279 đồng;

- Đối với bà Nh2, số tiền góp vốn là 10.500.000 đồng, số tiền bị chiếm đoạt sau khi tính tỷ lệ là 10.183.717 đồng, số tiền nhận lãi là 7.875.000 đồng, bị cáo phải trả số tiền chênh lệch còn lại là 2.308.717 đồng;

- Đối với bà N1, số tiền góp vốn là 10.300.000 đồng, số tiền bị chiếm đoạt sau khi tính tỷ lệ là 9.989.741 đồng, số tiền nhận lãi là 12.498.000 đồng, bị cáo được nhận lại số tiền chênh lệch là 2.508.259 đồng;

- Đối với bà Đ1, số tiền góp vốn là 1,3 triệu đồng, số tiền bị chiếm đoạt sau khi tính tỷ lệ là 1.260.841 đồng, số tiền nhận lãi là 1.794.000 đồng, bị cáo được nhận lại số tiền chênh lệch là 533.159 đồng;

- Đối với bà N2, số tiền góp vốn là 13.000.000 đồng, số tiền bị chiếm đoạt sau khi tính tỷ lệ là 12.608.411 đồng, số tiền nhận lãi là 13.260.000 đồng, bị cáo được nhận lại số tiền chênh lệch là 651.589 đồng;

- Đối với bà H1, số tiền góp vốn là 1.700.000 đồng, bà H1 vay lại 02 triệu đồng và đã trả đủ sau khi bị cáo đi khỏi địa phương. Bà H1 nhận tiền lãi là 1.785.000 đồng, nên bị cáo được nhận lại 1.785.000 đồng.

Vì vậy, không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bị cáo về việc không đồng ý bồi thường cho bị hại, kháng cáo của bà Th2, bà Nh1, bà Lẹ, bà N1, bà Đ1, bà N2, bà Nh2, bà O và bà H1 về việc yêu cầu bị cáo phải trả phần vốn góp ban đầu và khoản tiền lãi tính từ khi bị cáo đi khỏi địa phương (tháng 01 năm 2019) đến nay.

[10] Do kháng cáo không được chấp nhận, nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm và án phí dân sự phúc thẩm. Bà Nh1, bà U (Lẹ), bà N1 và bà Đ1 được miễn nộp án phí dân sự phúc thẩm do là người cao tuổi. Bị hại gồm có: Bà Th2, bà N2, bà Nh2, bà O và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà H1 phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

[11] Về phần trách nhiệm dân sự, cấp sơ thẩm buộc bị cáo phải có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho bị hại, nhưng lại không căn cứ 589 của Bộ luật Dân sự để giải quyết là có thiếu sót. Do không có kháng cáo và kháng nghị về vấn đề này, nên cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm.

[12] Các phần khác của án sơ thẩm không bị kháng cáo hoặc bị kháng nghị, đã có hiệu lực thi hành kể từ khi hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 2 Điều 136, điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Khoản 3 Điều 175, điều 48, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; Điều 589 của Bộ luật Dân sự; Điều 12, khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phan Tuyết Th1, kháng cáo của bị hại Phạm Thị Th2, Đinh Thị Nh1, Nguyễn Thị U, Võ Thị N1, Ngô Thị Đ1, Lương Thị Bé N2, Phạm Hồng Nh2, Phạm K O và kháng cáo của người có Q2 lợi, nghĩa vụ liên quan Võ Thị H1; Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 12/2022/HS-ST ngày 22 tháng 02 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời.

2. Xử phạt bị cáo Phan Tuyết Th1 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù về tội "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản". Thời hạn tù được tính kể từ ngày bị cáo chấp hành án, được khấu trừ thời gian bị tạm giam từ ngày 02 tháng 7 năm 2019 đến ngày 01 tháng 8 năm 2019.

3. Buộc bị cáo phải hoàn trả cho các bị hại với số tiền như sau:

3.1. Trả cho bà Phạm Hồng Nh2 2.308.717 (hai triệu ba trăm lẻ tám nghìn bảy trăm mười bảy) đồng;

3.2. Trả cho bà Phạm K O 29.543.279 (hai mươi chín triệu N2 trăm bốn mươi ba nghìn hai trăm bảy mươi chín) đồng;

3.3. Trả cho bà Phạm Thị Th2 3.098.778 (ba triệu không trăm chín mươi tám nghìn bảy trăm bảy mươi tám) đồng;

3.4. Trả cho bà Trần Thị Bích Ng 1.819.756 (một triệu tám trăm mười chín nghìn bảy trăm N2 mươi sáu) đồng;

3.5. Trả cho bà Lê Ng K 52.381.813 (N2 mươi hai triệu ba trăm tám mươi mốt nghìn tám trăm mười ba) đồng;

3.6. Trả cho bà Đinh Thị Nh1 36.592.668 (ba mươi sáu triệu N2 trăm chín mươi hai nghìn sáu trăm sáu mươi tám) đồng;

3.7. Trả cho bà Nguyễn Thị S 49.390.224 (bốn mươi chín triệu ba trăm chín mươi nghìn hai trăm hai mươi bốn) đồng;

3.8. Trả cho bà Nguyễn Thị U (Lẹ) 10.196.334 (mười triệu một trăm chín mươi sáu nghìn ba trăm ba mươi bốn) đồng.

4. Buộc bị hại, người có Q2 lợi, nghĩa vụ liên quan phải hoàn trả cho bị cáo số tiền như sau:

4.1. Bà Võ Thị N1 hoàn trả 2.508.259 (hai triệu N2 trăm lẻ tám nghìn hai trăm N2 mươi chín) đồng;

4.2. Bà Lương Thị Bé N2 hoàn trả 651.589 (sáu trăm N2 mươi mốt nghìn N2 trăm tám mươi chín) đồng;

4.3. Bà Đoàn Thị Q1 hoàn trả 8.770.611 (tám triệu bảy trăm bảy mươi nghìn sáu trăm mười một) đồng;

4.4. Bà Ngô Thị Đ1 hoàn trả 533.159 (N2 trăm ba mươi ba nghìn một trăm N2 mươi chín) đồng;

4.5. Bà Võ Thị V hoàn trả 400.061 (bốn trăm sáu mươi mốt) đồng;

4.6. Bà Nguyễn Thị Nh1 hoàn trả 888.098 (tám trăm tám mươi tám nghìn không trăm chín mươi tám) đồng;

4.7. Bà Nguyễn Thị T1 hoàn trả 888.098 (tám trăm tám mươi tám nghìn không trăm chín mươi tám) đồng;

4.8. Bà Trần Thị M hoàn trả 234.024 (hai trăm ba mươi bốn nghìn không trăm hai mươi bốn) đồng;

4.9. Bà Nguyễn Thị Đ2 hoàn trả 234.024 (hai trăm ba mươi bốn nghìn không trăm hai mươi bốn) đồng;

4.10. Bà Võ Bích Ph hoàn trả 1.080.000 (một triệu không trăm tám mươi nghìn) đồng;

4.11. Bà Võ Thị H1 số tiền hoàn trả 1.785.000 (một triệu bảy trăm tám mươi lăm nghìn) đồng;

4.12. Bà Đồng Kim Th3 hoàn trả 182.086 (một trăm tám mươi hai nghìn không trăm tám mươi sáu) đồng;

4.13 Bà Đặng Thị T2 hoàn trả 555.061 (N2 trăm N2 mươi N2 nghìn không trăm sáu mốt) đồng;

4.14. Bà Trịnh Hồng L2 hoàn trả 1.248.000 (một triệu hai trăm bốn mươi tám nghìn) đồng;

4.15. Bà Đặng Thùy D hoàn trả 1.080.000 (một triệu không trăm tám mươi nghìn) đồng;

4.16. Bà Nguyễn Diệu H hoàn trả 888.000 (tám trăm tám mươi tám nghìn) đồng;

4.17. Bà Nguyễn Thị Kh hoàn trả 555.061 (N2 trăm N2 mươi N2 nghìn không trăm sáu mốt) đồng;

4.18. Bà Lê Thị Q2 hoàn trả 111.012 (một trăm mười một nghìn không trăm mười hai) đồng;

4.19. Bà Lê Thị H hoàn trả 111.012 (một trăm mười một nghìn không trăm mười hai) đồng;

4.20. Bà Kiên Thị Chanh L1 hoàn trả 222.024 (hai trăm hai mươi hai nghìn không trăm hai bốn) đồng;

4.21. Bà Trương Thị Ng hoàn trả 196.244 (một trăm chín mươi sáu nghìn hai trăm bốn mươi bốn) đồng;

4.22. Bà Lý Thị Th5 hoàn trả 2.080.000 (hai triệu không trăm tám mươi nghìn) đồng;

4.23. Bà Trần Thị X hoàn trả 1.404.000 (một triệu bốn trăm lẻ bốn nghìn) đồng;

4.24. Bà Võ Thị A hoàn trả 110.122 (một trăm mười nghìn một trăm hai mươi hai) đồng;

4.25. Bà Trần Thị Th4 hoàn trả 216.024 (hai trăm mười sáu nghìn không trăm hai mươi bốn) đồng.

5. Giao cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời tiếp tục quản lý số tiền 75.000.000 (bảy mươi lăm triệu) đồng do bị cáo khắc phục để đảm bảo việc thi hành án.

6. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong các khoản tiền nêu trên, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành theo lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.

7. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

8. Bị cáo phải chịu: 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và 9.266.000 (chín triệu hai trăm sáu mươi sáu nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch; 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự phúc thẩm và 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự phúc thẩm.

9. Bà Lương Thị Bé N2, Đoàn Thị Q1, Võ Thị V, Nguyễn Thị T1, Nguyễn Thị Đ2, Võ Bích Ph, Võ Thị H1, Đồng Kim Th3, Trịnh Hồng L2, Đặng Thùy D, Nguyễn Diệu H, Nguyễn Thị Kh, Lê Thị Q2, Lê Thị H, Kiên Thị Chanh L1, Lý Thị Th5, Trần Thị Th4, mỗi người phải nộp 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm. Riêng bà Võ Thị N1, Ngô Thị Đ1, Nguyễn Thị Nh1, Trần Thị M, Đặng Thị T2, Trương Thị Ng, Võ Thị A, Trần Thị X được miễn án phí dân sự sơ thẩm do Th4ộc diện người cao tuổi.

10. Bà Đinh Thị Nh1, bà Nguyễn Thị U (Lẹ), bà Võ Thị N1, bà Ngô Thị Đ1 được miễn nộp án phí dân sự phúc thẩm. Bà Phạm Thị Th2, bà Lương Thị Bé N2, bà Phạm Hồng Nh2, bà Phạm K O và người có Q2 lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Võ Thị H1 phải chịu án phí dân sự phúc thẩm với số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng/người. Phần bà Th2, bà N2, bà Nh2, bà O và bà H1 nộp tạm ứng án phí theo các Biên lai Th4 tiền số 0004485, 0004488, 0004484, 0004486 và số 0004487 do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời phát hành cùng ngày 03/3/2022 được khấu trừ.

11. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

12. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

246
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 101/2022/HS-PT

Số hiệu:101/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về