TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN THIẾT, TỈNH BÌNH THUẬN
BẢN ÁN 07/2022/HS-ST NGÀY 14/01/2022 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 14 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết xét xử công khai vụ án hình sự thụ lý số 224/2021/HSST ngày 30 tháng 11 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 436/2021/HSST-QĐ ngày 31/12/2021 đối với bị cáo:
NGUYỄN QUỐC H (tên gọi khác: B) - sinh ngày 18/04/1992, tại Bình Thuận; Nơi cư trú: Khu phố 3, phường X, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận; Giới tính: Nam; Trình độ học vấn: 09/12; Nghề nghiệp: Không; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn H (chết) và bà Đặng Thị Minh K, sinh năm 1972, trú tại: Khu phố 3, phường X, thành phố Phan Thiết, Bình Thuận; Vợ: Huỳnh Thụy Ánh K, sinh năm 1994 (đã ly hôn), con: chưa có, anh chị em ruột có 02 người, bị cáo là con thứ nhất trong gia đình.
Tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân: Ngày 14/4/2013 bị Công an phường X xử phạt hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản” (theo Quyết định số 34/QĐ-XPHC). Ngày 08/4/2013 bị UBND phường X ra Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã phường về hành vi “Trộm cắp tài sản” (theo Quyết định số 32/QĐ-UBND). Ngày 12/8/2013 bị Toà án nhân dân huyện H xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (theo bản án số 64/2013/HSST). Ngày 17/12/2013 bị Toà án nhân dân thành phố P xử phạt 09 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Cộng với 06 tháng tù theo bản án số 64/2013/HSST của Toà án nhân dân huyện H. Tổng hợp hình phạt chung buộc bị cáo phải chấp hành cho cả hai tội và hai bản án là 27 tháng tù (theo bản án số 217/2013/HSST). Chấp hành xong hình phạt tù ngày 20/7/2015. Ngày 23/6/2017 bị UBND phường X ra Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã phường (theo Quyết định số 173/QĐ-UBND). Ngày 05/3/2021 bị Toà án nhân dân huyện H xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (theo bản án số 26/2021/HSST). Hiện Huy đang chấp hành án tại trại giam H – Bộ công an. Ngày 04/10/2021 bị Toà án nhân dân thành phố P xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tổng hợp với hình phạt 18 tháng tù của bản án số 26/2021/HSST ngày 05/3/2021 của Toà án nhân dân huyện H, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là 42 tháng tù (theo bản án số 145/2021/HSST).
Bị cáo hiện đang chấp hành án phạt tù của bản án số 26/2021/HSST, ngày 05/3/2021 tại Trại giam H – Bộ công an. Hiện đã được trích xuất về Nhà tạm giữ - Công an thành phố P. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Người bị hại: ông Nguyễn Hữu N, sinh năm 1989 (vắng mặt) Nơi cư trú: Khu phố 7, phường M, thành phố P, tỉnh B.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1/ Ông Nguyễn Văn S, sinh năm 1959 (vắng mặt) Nơi cư trú: Khu phố 3, phường P, thành phố P, tỉnh B.
2/ Bà Lê Thị N, sinh năm 1992 (vắng mặt) Nơi cư trú: Khu phố 15, phường M, thành phố P, tỉnh B.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào khoảng 10 giờ 20 phút, ngày 20/11/2016, anh Nguyễn Hữu N điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha Exciter, biển số 86C1 – 331.24 chở theo bạn là Nguyễn Thành N đi từ Mũi N đến nhà bạn của N là Nguyễn Quốc H chơi. Đến khoảng 12 giờ cùng ngày, H hỏi mượn xe mô tô 86C1 – 331.24 để đi mua nước uống thì N đồng ý và giao chìa khóa cho H. H đi mua nước uống về, trả chìa khoá xe cho N rồi ngồi nói chuyện với N và N. Đến khoảng 15 giờ cùng ngày, H tiếp tục hỏi mượn xe mô tô của N để đi giải quyết công việc. N đồng ý và giao chìa khoá xe mô tô cho H.
Sau khi mượn được xe mô tô, H điều khiển xe này vào tiệm game bắn cá T ở số 83 đường T, phường P, TP. P để chơi game. Do chơi game thua hết tiền nên H nảy sinh ý định thế chấp xe mô tô trên để tiếp tục chơi game. H đem xe mô tô thế chấp cho ông Nguyễn Văn S là quản lý tiệm game bắn cá T lấy 3.000.000 đồng, quy đổi thành điểm nạp vào máy bắn cá và tiếp tục chơi game bắn cá thua hết số tiền trên. Sau khi thua hết tiền, H liên lạc cho Ngô Anh T và thỏa thuận thế chấp xe mô tô cho T lấy 6.000.000 đồng. T đi cùng một người thanh niên (không rõ nhân thân) đến tiệm game bắn cá T, đưa cho H số tiền 6.000.000 đồng rồi điều khiển xe mô tô 86C1 – 331.24 đi. H sử dụng tiền của T đưa trả 3.500.000 đồng cho ông S (gồm tiền gốc 3.000.000 đồng và tiền lãi 500.000 đồng), số tiền còn lại 2.500.000 đồng H tiếp tục chơi game bắn cá và bị thua hết.
Đến khoảng 18 giờ cùng ngày H đi bộ về nhà. N hỏi xe đâu thì H nói đang để trước nhà sau đó bỏ đi. N và N tiếp tục ở nhà H chờ, gọi điện yêu cầu trả xe nhưng H không nghe máy. N và N ở lại nhà H đến khoảng 20 giờ ngày 21/11/2016 gọi điện cho H thì H trả lời đã đem xe mô tô 86C1-331.24 đi cầm thế lấy số tiền 5.000.000 đồng và yêu cầu N đưa 5.000.000 đồng để đi chuộc lại xe. N và N tiếp tục ở nhà H đến ngày 22/11/2016 không thấy H mang xe về trả nên đến Công an phường X, thành phố P trình báo.
Đến tối ngày 26/11/2016, N nhận được điện thoại của Lê Thị N, N nói lại với N: Có người tên Đ nhắn nếu muốn lấy lại xe mô tô 86C1-331.24 thì đem Giấy đăng ký xe đến gặp T, N sau đó cũng nhắn số điện thoại của T cho N. Sau khi N liên hệ với T rồi đưa Giấy đăng ký xe mô tô 86C1-331.24 cho T, T dẫn N đến tiệm cầm đồ 38 do anh Nguyễn H (sinh năm 1979, trú tại khu phố 3, phường Đ, thành phố P ) làm chủ, T nói: “Xe mô tô biển số 86C1-331.24 đã bán cho người khác với giá 11.000.000 rồi, nên giờ phải cầm thế lấy số tiền 11.000.000 đồng để trả cho người đã mua xe, khi nào có tiền thì đến tiệm cầm đồ chuộc lại xe sau”. Sau đó T cầm thế xe mô tô trên tại tiệm cầm đồ 38 với số tiền 11.500.000 đồng. Do không có tiền để đi xe về nên N xin T 500.000 đồng để thuê xe ôm chở về. Sáng ngày 27/11/2016 N đến Công an phường X trình báo sự việc T cầm thế xe của mình tại tiệm cầm đồ 38.
Nhận được trình báo của N, Công an phường X đã tiến hành thu giữ vật chứng do anh Nguyễn H giao nộp gồm:
01 xe mô tô hiệu Yamaha Exciter, biển số 86C1-33124.
Tại bản Kết luận định giá tài sản số 158, ngày 07/12/2016 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thành phố Phan Thiết kết luận: Xe mô tô biển số 86C1-33124 có giá trị là 28.000.000 đồng.
Xử lý vật chứng: Quá trình điều tra xác định xe mô tô 86C1-33124 do Nguyễn Thị T (là em gái của N) đứng tên chủ sở hữu. Ngày 20/11/2016, N mượn xe mô tô của T đi chơi thì bị Nguyễn Quốc H chiếm đoạt. Cơ quan CSĐT - Công an thành phố Phan Thiết đã xử lý vật chứng, trả lại tài sản trên cho T.
Về phần dân sự: Sau khi tự nguyện giao nộp cho Cơ quan CSĐT – Công an thành phố Phan Thiết xe mô tô 86C1-33124, anh Nguyễn H không yêu cầu bồi thường về phần dân sự.
Tại các lời khai, biên bản hỏi cung bị cáo, biên bản ghi lời khai của người bị hại, người liên quan, người làm chứng trong quá trình điều tra đều thể hiện bị cáo Nguyễn Quốc H có hành vi lợi dụng lòng tin của anh Nguyễn Hữu N để mượn chiếc xe mô tô Yamaha Exciter, biển số 86C1-33124 để đi công việc, sau khi mượn được tài sản thì không trả lại xe mà đem cầm thế để lấy tiền chơi game.
Với hành vi nêu trên, ngày 30/11/2021 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết ra bản cáo trạng số 226/CT-VKS truy tố bị cáo H về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 01 Điều 175 Bộ luật hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết phát biểu lời luận tội và tranh luận: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thừa nhận hành vi lợi dụng lòng tin của anh Nguyễn Hữu N để mượn chiếc xe mô tô Yamaha Exciter, biển số 86C1-33124 để đi công việc, sau khi mượn được tài sản thì không trả lại xe mà đem cầm thế để lấy tiền chơi game. Do đó Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 01 Điều 175 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên khi quyết định hình phạt đề nghị xem xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự vì bị cáo Nguyễn Quốc H không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải với hành vi phạm tội của mình, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Qua đó đề nghị Hội đồng xét xử, áp dụng điểm b khoản 01 Điều 175; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 56 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc H từ 18 tháng tù đến 24 tháng tù. Tổng hợp hình phạt 42 tháng tù tại bản án số 145/2021/HS-ST ngày 04/10/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận để buộc bị cáo H phải chấp hành hình phạt chung.
Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo không trình bày lời bào chữa cũng như không có ý kiến về lời luận tội của Viện kiểm sát đồng thời thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và đồng ý với quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt;
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa;
Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác,
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Phan Thiết, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về chứng cứ buộc tội bị cáo: Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã nêu, bị cáo thừa nhận cáo trạng truy tố là đúng, không oan. Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, cũng như lời khai của người làm chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 15 giờ ngày 20/11/2016 Nguyễn Quốc H đã mượn xe mô tô biển số 86C1 -33124 trị giá 28.000.000 đồng của anh Nguyễn Hữu N để đi giải quyết công việc, do chơi game thua nên H đã cầm thế xe mô tô nêu trên cho Ngô Anh T lấy số tiền 6.000.000 đồng dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản cho anh N. Theo kết quả định giá của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thì giá trị tài sản mà bị cáo H chiếm đoạt là 28.000.000 đồng.
[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác; bị cáo là người có đầy đủ khả năng nhận thức cũng như khả năng điều khiển hành vi và thực hiện hành vi phạm tội một cách cố ý. Do đó Cáo trạng số 226/CT-VKS ngày 30/11/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết truy tố bị cáo về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 01 Điều 175 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ.
Hành vi này của bị cáo còn gây mất trật tự trị an xã hội nên cần phải xử phạt một mức án tù tương xứng nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung.
[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Huy không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải với hành vi phạm tội của mình là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 01 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[5] Bị cáo H hiện đang chấp hành án tại Trại giam Huy Khiêm – Bộ Công an với mức hình phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 26/2021/HSST của Toà án nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận. Ngày 04/10/2021, bị Toà án nhân dân thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tổng hợp với hình phạt 18 tháng tù của bản án số 26/2021/HSST ngày 05/3/2021 của Toà án nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là 42 tháng tù (theo bản án số 145/2021/HSST). Nay bị cáo H lại bị xét xử về tội: “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” nên cần áp dụng khoản 1 Điều 56 để tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành chung.
[6] Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra, Cơ quan CSĐT - Công an thành phố Phan Thiết đã xử lý vật chứng, trả lại tài sản trên bị hại nên Hội đồng xét xử không xét.
[7] Về phần dân sự: anh Nguyễn H không yêu cầu bồi thường về phần dân sự nên Hội đồng xét xử không xét.
[8] Đối với ông Nguyễn Văn S đã nhận cầm thế xe mô tô 86C1-33124 của Nguyễn Quốc H nhưng không biết là tài sản do H chiếm đoạt của người khác nên Cơ quan điều tra không xem xét xử lý về hành vi “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” là phù hợp với quy định của pháp luật.
[9] Đối với Ngô Anh T đã có hành vi nhận cầm thế xe mô tô 86C1-33124 cho Nguyễn Quốc H, sau khi sự việc xảy ra T đã đi khỏi địa phương, Cơ quan CSĐT - Công an thành phố Phan Thiết chưa truy tìm được. Do đó Cơ quan điều tra tiếp tục làm rõ xử lý sau là có cơ sở, phù hợp với quy định của pháp luật.
[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
* Căn cứ: điểm b khoản 1 Điều 175; điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
* Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Quốc H phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.
* Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Quốc H 24 (Hai mươi bốn) tháng tù.
Tổng hợp với phần hình phạt chung 42 tháng tù tại bản án số 145/2021/HSST ngày 04/10/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận. Hình phạt chung buộc bị cáo phải chấp hành cho cả hai bản án là 66 (sáu mươi sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 30/10/2020.
* Về án phí: Áp dụng Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Nguyễn Quốc H nộp 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.
Quyền kháng cáo của bị cáo là 15 ngày tròn kể từ ngày tuyên án (14/01/2022), của bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là 15 ngày kể từ ngày tống đạt hợp lệ bản án
Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 07/2022/HS-ST
Số hiệu: | 07/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/01/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về