Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 04/2024/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 04/2024/HS-PT NGÀY 10/01/2024 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 10 tháng 01 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh H mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 286/2023/TLPT-HS ngày 30 tháng 10 năm 2023 do Bản án hình sự sơ thẩm số 56/2023/HS-ST ngày 22/09/2023 của Tòa án nhân dân thành phố S, tỉnh T bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 278/2023/QĐXXPT-HS ngày 06/12/2023, Quyết định hoãn phiên tòa số 172/2023/HSPT-QĐ ngày 18/12/2023 đối với:

* Bị cáo có kháng cáo: Cao Văn K, sinh năm 1985; Tên gọi khác: Không; CCCD số: 038085010803, cấp ngày 30/11/2021, nơi cấp: Cục cảnh sát QLHC về TTXH; Nơi ĐKNTTT: Lô 17 18 19 MBQH F, phố A, phường Q, thành phố T, tỉnh T; Nơi ở hiện tại: số nhà F, đường N, Tổ dân phố H, phường B, thành phố S, tỉnh T Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Cao Văn H và bà: Lê Thị M; có vợ là Hỏa Thị T và có 04 con, lớn sinh năm 2011, nhỏ sinh năm 2023; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 12/02/2015, bị Công an thành phố T xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Xâm hại đến sức khoẻ người khác”. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn bằng lệnh “Cấm đi khỏi nơi cư trú” (Có mặt).

* Bị hại: Anh Cao Đăng V - sinh năm xxxx (Vắng mặt) Địa chỉ: Tổ dân phố B, phường T, thành phố S, tỉnh T.

* Người làm chứng:

1. Chị Nguyễn Thị B - sinh năm 1988;

Địa chỉ: Tổ dân phố Q, phường Trung Sơn, thành phố S, tỉnh T.

2. Anh Nguyễn Huy T1 - sinh năm 1976;

Địa chỉ: 1 C, phường T, TP tỉnh T.

3. Anh Phùng Văn H1 - sinh năm 1993;

Địa chỉ: cầu Đ, H, S, Tuyên Quang.

4. Anh Nguyễn Đức T2 - sinh năm 1974;

Địa chỉ: Số B P, phường Đ, thành phố T, tỉnh T.

5. Chị Lê Thị M - sinh năm 1960;

Địa chỉ: Tổ dân phố H , phường B, thành phố S, tỉnh T.

6. Anh Đinh Xuân H2 - sinh năm 2001;

Địa chỉ: Ngách D V, Ô, quận Đ, Hà Nội.

7. Anh Hoàng Đình T3 - sinh năm 1986;

Địa chỉ: Khu B thị trấn T, huyện T, tỉnh T (Tất cả người làm chứng đều vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Anh Cao Đăng V được chị Nguyễn Thị B ủy quyền quản lý, sử dụng, cho thuê, cho mượn, thế chấp 01 xe ôtô Kia Soluto 1.4AT màu đỏ BKS: 36A-xxxxx. Khoảng 21 giờ ngày 06/01/2023, Cao Văn K đến nhà Cao Đăng V để thuê xe, hai bên thống nhất làm hợp đồng thuê xe ôtô BKS: 36A- xxxxx, thời hạn từ ngày 06/01/2023 đến hết ngày 05/02/2023 với giá 20.000.000 đồng/tháng và phải đặt cọc số tiền 5.000.000 đồng. Sau khi ký hợp đồng anh V giao xe cho K cùng giấy chứng nhận đăng ký, bảo hiểm và đăng kiểm của xe. Đến ngày 04/02/2023, do cần tiền trả nợ nên K đã gọi điện cho V xin gia hạn hợp đồng thuê xe thêm 10 ngày để tìm nơi bán xe ô tô lấy tiền trả nợ.

Đến chiều ngày 07/02/2023 Cao Văn K điều khiển xe ôtô BKS: 36A- xxxxx lên gặp anh Nguyễn Huy TI làm nghề mua bán xe ôtô ở phường T, thành phố T. K nói “Có con em ở cùng phường nhờ bán hộ chiếc xe” và lấy các giấy tờ liên quan ra cho anh T1 xem. Anh Tú kiểm tra và đồng ý mua với giá 335.000.000 đồng. Tuy nhiên xe ô tô mang tên Nguyễn Thị B nên anh T1 chỉ chuyển trước số tiền đặt cọc mua xe là 10.000.000 đồng vào số tài khoản 518585xxxx, ngân hàng T5 của K và đưa cho K một giấy mua bán xe yêu cầu chị B ký vào giấy bán xe kèm theo hình ảnh căn cước công dân của chủ xe.

Để bán được xe, K gọi điện qua zalo cho V nói: “Xe hết hạn phí đường bộ, anh gửi hình ảnh căn cước công dân của chủ xe cho tôi để tôi mua phí đường bộ” rồi chụp gửi hình ảnh phí đường bộ đã hết hạn có dán trên kính chắn gió trước xe ôtô để anh V tin tưởng nên anh V gửi hình ảnh căn cước công dân của chị B vào zalo của K, sau đó K trực tiếp sử dụng bút bi mực màu xanh ký và ghi họ tên “Nguyễn Thị B” vào phần “Bên bán” trên giấy mua bán xe mà anh T1 đưa trước đó. Khoảng 11 giờ 00 ngày 08/02/2023, K điều khiển xe chở anh T2 cùng đi đến nhà anh T1. K cho anh T1 xem hình ảnh căn cước công dân của Nguyễn Thị B và đưa cho anh T1 giấy mua bán xe có chữ ký và tên “Nguyễn Thị B”, giấy chứng nhận đăng ký xe, bảo hiểm, đăng kiểm của xe ôtô Kia Soluto 1.4AT, BKS: 36A- xxxxx và một bản photo căn cước công dân Nguyễn Thị B. Đồng thời giao xe và chìa khoá xe cho anh T1. Ngoài ra, do K là người bán xe nên anh T1 yêu cầu K trực tiếp ký và ghi rõ họ tên K vào một giấy bán xe giữa T1 và K. Sau khi nhận được xe, anh T1 chuyển số tiền mua xe còn thiếu là 325.000.000 đồng qua số tài khoản 518585xxxx cho K, có tiền K chuyển khoản trả nợ cho anh T2 251.400.000 đồng, số tiền còn lại K tiêu xài cá nhân hết.

Cùng ngày, anh Nguyễn Huy T1 đăng tải hình ảnh và thông tin xe ôtô Kia solute 1.4AT, BKS: 36A-xxxxx lên mạng xã hội để rao bán thì được anh Phùng Văn Hoàng S ở huyện S, tỉnh Tuyên Quang mua với giá 370.000.000 đồng, đến khoảng 12 giờ 30 phút ngày 09/02/2023, anh H1 vào H gặp anh T1 để giao tiền, nhận xe rồi đi về. Thời điểm này anh V phát hiện trên ứng dụng Zalo thấy có ngưởi rao bán xe BKS: 36A- xxxxx nên gọi điện thoại cho K, đồng thời gửi hình ảnh người mua xe qua zalo cho K hỏi: “Xe anh bán rồi à?”. K trả lời: “Xe anh đang cho thuê lại, để anh gọi điện cho người thuê”. Do không tin lời K nói, nên chị B và anh V đã kiểm tra định vị xe thì phát hiện xe ôtô đang di chuyển qua địa phận huyện H, tỉnh T nên điều khiển xe ôtô của V đuổi theo, trên đường đi anh V liên hệ và nhờ anh Hoàng Đình T3 và kêu gọi được một số người hỗ trợ. Nhóm anh T3 đi theo định vị của xe đến địa phận xã H, huyện Đ, thành phố Hà Nội thì dừng được xe và yêu cầu anh H1 đưa xe về Công an xã H để làm việc. Quá trình làm việc, anh H1 biết được chiếc xe ôtô Kia BKS: 36A- xxxxx là xe K thuê sau đó đem bán cho anh T1 nên đã tự nguyện giao nộp xe cho cơ quan Công an.

Sau khi biết sự việc đã bị phát giác, K khoá điện thoại và báo với Công ty H3 xin nghỉ việc và giao lại sim điện thoại số 0983.453.xxx có đăng ký zalo cùng số tài khoản 29992xxx, ngân hàng V1, chủ tài khoản mang tên Cao Văn K cho công ty với mục đích trốn tránh. Đến ngày 21/02/2023 biết hành vi của mình đang bị cơ quan Công an điều tra, K đã đến Công an thành phố S xin đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi của mình.

Tại kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số: 12/KT-HĐĐG ngày 001/3/2023 của Hội đồng định giá tài sản Ủy ban nhân dân thành phố s kết luận: Giá trị chiếc xe ô tô KIA SOLUTO BKS: 36A- xxxxx tại thời điểm bị chiếm đoạt là 350.000.000 đồng, 01 (một) định vị xe ô tô nhãn hiệu VNETGPS màu đen, Model: TG102E1 trị giá 800.000 đồng. Tổng tài sản bị chiếm đoạt trị giá 350.800.000 đồng.

Tại kết luận giám định số: 1300/KL-KTHS ngày 03/4/2023 của phòng K2 Công an tỉnh T kết luận: Chữ viết họ tên “Nguyễn Thị B” dưới mục “Bên bán” ở mẫu cần giám định (kí hiệu A) so với mẫu so sánh (kí hiệu M1, M2) và chữ viết họ tên “Nguyễn Thị B” ở mẫu so sánh (kí hiệu M3) không phải do cùng một người viết ra.

Tại kết luận giám định số: 1335/KL-KTHS ngày 04/4/2023 của phòng Kỹ thuật Công an tỉnh T kết luận: Chữ ký, chữ viết “Cao Văn K” dưới mục “Bên bán” ở mẫu cần giám định kí hiệu A so với các mẫu so sánh kí hiệu M1, M2 và chữ ký, chữ viết “Cao Văn K” ở mẫu so sánh kí hiệu M3 là do cùng một người ký và viết ra.

Tại kết luận giám định số: 2633/KL-KTHS ngày 11/7/2023 của phòng K2 Công an tỉnh T kết luận: Chữ ký không ghi họ tên ở giữa lề trái và chữ ký, chữ viết họ tên “Nguyễn Thị B” dưới mục “Bên bán” ở mẫu cần giám định (kí hiệu A) so với chữ ký, chữ viết họ tên “Nguyễn Thị B” ở mẫu so sánh (kí hiệu M) do cùng một người ký và viết ra.

Về trách nhiệm dân sự: Anh Cao Đăng V đã nhận lại toàn bộ tài sản và số tiền bồi thường là 33.000.000 đồng. Anh Nguyễn Huy T1 đã nhận lại số tiền 335.000.000 đồng từ Cao Văn K. Anh Nguyễn Huy T1 đã trả lại số tiền 370.000.000 đồng cho anh Phùng Văn H1.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 56/2023/HS-ST ngày 22/9/2023, Tòa án nhân dân thành phố sầm Sơn, tỉnh T đã Quyết định:

Căn cứ khoản 3 Điều 175; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 38 BLHS; khoản 2 Điều 136; Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.Tuyên bố: Bị cáo Cao Văn K phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Xử phạt: C (Ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

Ngoài ra Bản án sơ thẩm còn Quyết định về trách nhiệm dân sự; án phí và quyền kháng cáo.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 03/10/203 bị cáo Cao Văn K có đơn kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo;

Quan đim của đại diện Viện kim sát nhân dân tỉnh T:

- Về kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu của công dân, mức hình phạt cấp sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo là đã có phần xem xét giảm nhẹ, kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt là không có cơ sở chấp nhận.

- Về kháng cáo xin được hưởng án treo thấy rằng:

Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Tự nguyện khắc phục thiệt hại; Đầu thú; Người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo (điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS).

Tại giai đoạn phúc thẩm bị cáo xuất trình thêm tình tiết giảm nhẹ mới đó là: Thư ngỏ ngày 28/12/2023 của Hội cựu chiến binh phường B về việc Cao Văn K tích cực tham gia đóng góp kinh phí để hỗ trợ, tặng quà cho các hộ nghèo; Hoàn cảnh gia đình khó khăn, lần đầu phạm tội, rất ăn năn hối hận, đơn được chính quyền địa phương xác nhận; Bị hại tiếp tục có đơn xin giảm nhẹ hình phạt và xin cho bị cáo được hưởng án treo (Khoản 2 Điều 51 BLHS).

Bị cáo phạm tội lần đầu, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú cụ thể rõ ràng nên việc cách ly bị cáo khỏi xã hội là chưa cần thiết mà tạo điều kiện cho bị cáo được cải tạo tại địa phương dưới sự giám sát của chính quyền và gia đình là phù hợp, kháng cáo xin được hưởng án treo là có cơ sở chấp nhận.

- Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 BLTTHS. Chấp nhận một phần kháng cáo, giữ nguyên hình phạt 36 tháng tù nhưng cho bị cáo Cao Văn K được hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách theo quy định của pháp luật về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo khoản 3 Điều 175 BLHS.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo đã biết lỗi, rất hối hận về việc làm của mình, gia đình bị cáo rất khó khăn đang nuôi 4 con nhỏ, là lao động chính trong nhà, rất mong HĐXX xem xét cho bị cáo được cải tạo tại địa phương, được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng và thủ tục kháng cáo: Đơn kháng cáo của bị cáo Cao Văn K1 trong thời hạn kháng cáo theo quy định tại Điều 333 BLTTHS, nên được coi là hợp pháp. Tại phiên tòa bị cáo không rút đơn kháng cáo, HĐXX chấp nhận đơn của bị cáo để xem xét nội dung kháng cáo theo trình tự phúc thẩm.

[2] Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Ca Văn K thành k khai báo và thừa nhận hành vi phạm tội cụ thể:

Ngày 06/01/2023 Cao Văn K đến nhà anh Cao Đăng V để thuê xe, hai bên thống nhất làm hợp đồng thuê xe ôtô BKS: 36A-xxxxx, thời hạn từ ngày 06/01/2023 đến hết ngày 05/02/2023 sau khi ký hợp đồng thuê xe anh V đã bàn giao xe và giấy tờ cho Cao Văn K, đến ngày 04/02/2023 do cần tiền trả nợ nên K đã gọi điện cho V xin gia hạn hợp đồng thuê xe thêm 10 ngày để tìm nơi bán xe ôtô lấy tiền trả nợ. Đến ngày 08/02/2023, Cao Văn K mang chiếc xe thuê của anh V bán cho anh Nguyễn Huy T1 ở phường T, thành phố T được 335.000.000 đồng, số tiền chiếm đoạt từ việc bán chiếc xe bị cáo K đã trả nợ và tiêu xài cá nhân. Đến ngày 21/02/2023 biết hành vi của mình bị phát giác nên bị cáo đã đến Cơ quan Công an đầu thú khai nhận hành vi phạm tội. Tổng giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt là 350.800.000đ (Ba trăm năm mươi triệu tám trăm nghìn đồng).

Lời thừa nhận về hành vi phạm tội của bị cáo tại cấp phúc thẩm phù hợp với lời khai của bị cáo, bị hại tại cấp sơ thẩm và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án được kiểm tra tại phiên tòa nên hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” quy định tại khoản 3 Điều 175 Bộ luật Hình sự.

[3] Về tính chất vụ án:

Vụ án thuộc tội phạm rất nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là gây nguy hiểm cho xã hội rất lớn, đã trực tiếp xâm phạm đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất an ninh trật tự và an toàn xã hội. Vì vậy cần xử lý nghiêm để giáo dục, đồng thời phòng ngừa chung, cấp sơ thẩm đã xác định tội danh và khung hình phạt cho bị cáo là có cơ sở pháp luật.

[4] Xét kháng cáo của bị cáo Cao Văn K xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo: Nhận thấy, khi lượng hình cấp sơ thẩm có xem xét, đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tự nguyện khắc phục hậu quả cho người bị hại và đã ra đầu thú khai nhận hành vi phạm tội, người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo theo điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51của BLHS. Tinh tiết tăng nặng không có. Các tình tiết giảm nhẹ của cấp sơ thẩm áp dụng là phù hợp với quy định của pháp luật.

Tại cấp phúc thẩm: Bị cáo xuất trình đơn xin giảm án của bị hại, bị hại tha thiết xin cấp phúc thẩm cho bị cáo được giảm hình phạt và được hưởng án treo để bị cáo có cơ hội sửa sai lầm; Giấy xác nhận hoàn cảnh khó khăn của UBND phường B, thành phố T, tỉnh T xác nhận: Bị cáo tích cực tham gia các hoạt động ở địa phương, chưa vi phạm lần nào, có hoàn cảnh gia đình khó khăn, là lao động chính trong gia đình, các con còn nhỏ; T4 ngõ bị cáo đã tự nguyện ủng hộ tặng quà cho đối tượng hộ nghèo là những tình tiết giảm nhẹ mới tại khoản 2 Điều 51 BLHS.

Xét thấy kháng cáo về xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo là không được chấp nhận, hành vi của bị cáo rất nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến tài sản của người khác, mức hình phạt 36 tháng tù của cấp sơ thẩm đối với bị cáo K là đã xem xét giảm nhẹ cho bị cáo.

Xét thấy kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo: Bị cáo có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, có nơi cư trú rõ ràng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, thành khẩn nhận tội, tỏ rõ sự ăn năn hối cải, bị cáo không còn nguy hiểm cho xã hội. Tại cấp phúc thẩm bị cáo xuất trình tình tiết giảm nhẹ mới, áp dụng Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15/4/2022, sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của BLHS về án treo; Nên chấp nhận kháng cáo của bị cáo K1 và theo đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh T, xem xét cho bị cáo Cao Văn K được cải tạo tại địa phương được hưởng án treo, cũng đủ tác dụng răn đe, giáo dục, cải tạo và phòng ngừa chung tội phạm.

[5] Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo K1 được chấp nhận một phần kháng cáo nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm: Căn cứ điểm h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

[6]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

 1. Căn cứ: Điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 BLTTHS Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Cao Văn K. Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 56/2023/HSST ngày 22/9/2023 của TAND thành phố S như sau:

Áp dụng khoản 3 Điều 175; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54; Điều 65 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Cao Văn K phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Cao Văn K1 36 (Ba mươi sáu) tháng tù cho được hưởng án treo, thời gian thử thách 60 (Sáu mươi) tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.

- Giao bị cáo Cao Văn K cho Ủy ban nhân dân phường B, thành phố S, tỉnh T giám sát giáo dục trong thời gian bị cáo thử thách án treo.

- Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

- Trong trường hợp người đang chấp hành án treo chuyển đi nơi khác thì cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục có trách nhiệm thông báo ngay cho Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện hoặc thành phố để Công an làm thủ tục cần thiết giao cho cơ quan, tổ chức nơi người đó chuyển đến tiếp tục giám sát, giáo dục và thông báo bằng văn bản cho Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp (thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự).

- Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của BLHS.

2. Án phí hình sự phúc thẩm: Căn cứ điểm h, khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo Cao Văn K không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

7
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 04/2024/HS-PT

Số hiệu:04/2024/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về