Bản án về tội không tố giác tội phạm số 09/2022/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BẾN CÁT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 09/2022/HSST NGÀY 21/01/2022 VỀ TỘI KHÔNG TỐ GIÁC TỘI PHẠM

Ngày 21 tháng 01 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 266/2021/TLST-HS ngày 31 tháng 12 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2022/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 01 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Thanh N, sinh năm 1998 tại tỉnh Đồng Tháp; hộ khẩu thường trú: Ấp B, xã T, huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp; nghề nghiệp: thợ hồ; trình độ học vấn: 06/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1970 và bà Lê Thị Bích N1, sinh năm 1970; bị cáo có 03 anh em, lớn nhất sinh năm 1993, nhỏ nhất là bị cáo; vợ: Đinh Thị Thúy A, sinh năm 1997; bị cáo có 02 con, lớn nhất sinh năm 2013, nhỏ nhất sinh năm 2018;

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt truy nã, tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/10/2021 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng:

1. Ông Đặng Minh T, vắng mặt.

2. Ông Nguyễn Trung T1, vắng mặt.

3. Ông Đặng Tiến L1, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đặng Minh T sống cùng anh ruột là Đặng Tiến L1 tại phườngTân Định, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương. Nguyễn Trung T1 và Nguyễn Thanh N là bạn bè với T và L1 Trưa ngày 12/7/2020, sau khi đi đám cưới bạn, T về phòng trọ và rủ Nguyễn Trung T1 đi đến khu vực thuộc phường Phú Mỹ, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương uống bia. Đến khoảng 18 giờ 50 phút cùng ngày, T điều khiển xe mô tô hiệu Suzuki Satria, biển số 61M1- 498.16 chở T1 về đến đoạn đường ĐT741 khu vực phường tân Định thì gặp Nguyễn Thanh N đang điều khiển xe mô tô biển số 68BA-001.66 chở Đặng Tiến L1 trên đường. T tiếp tục điều khiển xe chạy đến Ngã 3 giao nhau với đường Mỹ Phước – Tân Vạn thì thấy anh Đinh Ngọc T2 (sinh năm 1993, nơi đăng ký thường trú: ấp 1B, xã Phước Hòa, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương) đang điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Sonic, biển số 61F1-377.77 chở bạn gái là chị Nguyễn Phước A1 (sinh năm 2002, nơi đăng ký thường trú: khu phố 2, phường Tương Bình Hiệp, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương) chạy phía trước cùng chiều. T thấy xe mô tô của anh T2 có độ pô gây tiếng nổ lớn thì T điều khiển xe mô tô vượt lên bên trái rồi nẹt pô, anh T2 thấy vậy nên cũng nẹt pô lại. T mới nói “Đánh nhau không”, anh T2 không trả lời mà cho xe tăng tốc. Thấy vậy, T quay lại kêu N và L1 chạy lên đánh T2 rồi điều khiển xe đuổi theo anh T2. Khi đến trước quán hủ tiếu Nguyên Ký thuộc khu phố 1, phường Tân Định, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương, T vượt lên bên trái xe mô tô nhãn hiệu Honda Sonic, biển số 61F1-377.77 rồi dùng chân phải đạp vào xe nhưng đạp trượt. Anh T2 liền dừng xe lại bên lề đường thì T điều khiển xe vượt qua rồi cũng dừng xe. T bước xuống xe đi lại, xông vào đánh anh T2 (lúc này T1 vẫn ngồi trên xe). Anh T2 bước xuống xe lấy nón bảo hiểm đánh lại T (chị A1 vẫn ngồi trên xe). Lúc này, N và L1 chạy đến cũng xuống xe chạy đến đánh anh T2. Anh T2 bỏ chạy vào quán hủ tiếu Nguyên Ký. T, L1 và N đuổi theo anh T2 vào quán nhưng không đánh được nên quay ra. Lúc này, T nhìn thấy chị A1 ngồi trên xe mô tô nhãn hiệu Honda Sonic, biển số 61F1-377.77, đang sử dụng điện thoại di động hiệu Iphone 6S Plus, loại 32Gb gọi điện, T liền đi đến chửi “Đ.M mày gọi cho người đến hả” và xông vào, dùng tay trái đánh vào lưng của chị A1 còn tay phải giật lấy điện thoại của chị A1 nhưng không giật được do chị A1 giữ chặt. Lúc này, L1 và N từ trong quán Nguyên Ký đi ra, L1 thấy T đang giằng co, giật điện thoại của chị A1 thì chạy lại, đứng phía sau đẩy vào vai phải chị A1 nhằm giúp T chiếm đoạt điện thoại của chị A1. L1 đẩy làm chị A1 rớt xuống xe ra phía ngoài đường, cách xe khoảng 01m, chị A1 vẫn giữ được điện thoại trên tay. Lúc này, xe mô tô nhãn hiệu Honda Sonic, biển số 61F1-377.77 bị đổ nghiêng về bên trong lề đường. T liền đỡ xe mô tô đứng lên rồi leo lên xe Honda Sonic, biển số 61F1-377.77 khởi động điều khiển chạy đi. T1 cũng khởi động xe mô tô hiệu Suzuki Satria màu đỏ - đen, biển số 61M1- 498.16 điều khiển chạy theo T.

Thấy vậy, L1 và N cũng nhanh chóng lên xe mô tô biển số 68BA-001.66 chạy đi.

Sau khi chiếm đoạt được xe mô tô nhãn hiệu Honda Sonic, biển số 61F1- 377.77, T điều khiển xe chạy về hướng khu công nghiệp Mỹ Phước 3 rồi chạy về phòng trọ của T1 tại khu phố 2, phường Định Hòa, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. T1 cũng chạy xe về tới phòng trọ. Tại đây, T kêu T1 mang theo chìa khóa 10 đến khu dân cư khu phố 5, phường Hòa Phú, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương để gỡ biển số xe 61F1-377.77 nhằm mục đích chạy xe đi tiêu thụ sẽ không bị phát hiện. T1 kêu T khi bán được xe mô tô thì chia cho T1 số tiền 7.000.000 đồng. Sau đó, T bỏ biển số 61F1-377.77 vào 01 bịch ny lon màu đen rồi vứt vào 01 thùng rác ở gần đường ĐT741 rồi điều khiển xe mô tô vừa thay biển số về nhà của mình tại ấp Mỹ Hưng, xã Trần Thới, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau tìm nơi bán xe.

Sau khi sự việc xảy ra, L1 điện thoại cho T hỏi “mày lấy xe của người ta đi đâu” thì T kêu “bán rồi”. Đến ngày 14/7/2020, ông Đặng Văn L2 (sinh năm 1954, nơi đăng ký thường trú: ấp Mỹ Hưng, xã Trần Thới, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau) là cha ruột của T phát hiện T sử dụng xe mô tô hiệu Sonic không có biển kiểm soát, nghi là T sử dụng tài sản do phạm pháp mà có, nên ông L2 trình báo sự việc đến Công an xã Trần Thới. Công an xã Trần Thới đã mời T về trụ sở Công an xã để làm việc. Sau đó, vụ việc được chuyển cho Cơ quan điều tra Công an thị xã Bến Cát để giải quyết theo thẩm quyền.

Vật chứng thu giữ:

- 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Sonic, màu đen đỏ đã dán Decal màu vàng đen, biển số 61F1-377.77, số khung: 1114JK161435, số máy KB11E1161445 (đã qua sử dụng) do Đinh Ngọc T2 đứng tên chủ sở hữu;

- 01 (Một) xe mô tô hiệu Suzuki Satria F150, màu đỏ - đen, biển số 66M1- 498.16, số máy: CGA1ID200329, số khung: MH8DL11AZKJ200403 (đã qua sử dụng) do Nguyễn Trung T1 đứng tên chủ sở hữu;

- 01 (Một) xe mô tô hiệu FUSIN, màu đen đỏ, biển số 68BA-001.66, số khung: RRDCB1RRBD861772, số máy: VDTFS1P39FMB861772, kiểu dáng Sirius Trung Quốc của Nguyễn Thanh N;

- 01 (Một) điện thoại di động hiệu Iphone 6Plus – 32Gb màu vàng Gold (đã qua sử dụng) của Nguyễn Phước A1;

- 01 chìa khóa (cờ lê) 10 bằng kim loại màu trắng dài 14cm là công cụ mở biển số 61F1-377.77 xe mô tô bị hại;

- 01 USB lưu giữ 02 đoạn Camera tại hiện trường.

Tại Cơ quan điều tra, Đặng Minh T, Nguyễn Trung T1, Đặng Tiến L1, Nguyễn Thanh N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai phù hợp với các tài liệu chứng cứ thu thập được trong hồ sơ vụ án.

Theo Kết luận định giá tài sản ngày 17/7/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng thị xã Bến Cát, kết luận: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Sonic, màu đen đỏ đã dán Decal màu vàng đen, biển số 61F1-377.77, số khung: 1114JK161435, số máy KB11E1161445 trị giá 42.000.000 đồng, 01 Điện thoại di động hiệu Iphone 6S Plus, loại 32Gb màu vàng Gold trị giá 3.200.000 đồng. Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 45.200.000 đồng.

Quá trình điều tra, Nguyễn Thanh N bỏ trốn. Đến ngày 05/10/2021, N bị bắt truy nã.

Ngày 31/3/2021, Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát xử phạt Đặng Minh T 05 năm 6 tháng tù về tội “Cướp tài sản”, Đặng Tiến L1 03 năm tù về tội “Cướp tài sản”, Nguyễn Trung T1 01 năm tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

Tại bản Cáo trạng số 14/CT-VKSBC ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Nguyễn Thanh N về tội: “Không tố giác tội phạm” theo khoản 1 Điều 390 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương trong phần tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Nguyễn Thanh N về tội: “Không tố giác tội phạm”. Đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 390; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh N mức án từ 08 (tám) tháng đến 10 (mười) tháng tù.

- Về xử lý vật chứng: đã xử lý xong.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi đúng như nội dung Cáo trạng truy tố, có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo không có tranh luận gì với đại diện Viện Kiểm sát và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Bến Cát, Điều tra viên; Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã đảm bảo thực hiện đúng và đầy đủ.

[2] Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như bản Cáo trạng truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng và phù hợp với các chứng cứ, tài liệu đã thu thập tại hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 19 giờ ngày 12/7/2020, tại đường DT741, thuộc khu phố 1, phường Tân Định, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương, Nguyễn Thanh N biết rõ Đặng Minh T đã có hành vi đánh và giật chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 6S Plus, loại 32Gb màu vàng Gold trị giá 3.200.000 đồng của chị Nguyễn Phước A1 và 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Sonic, biển số 61F1-377.77 của anh Đinh Ngọc T2 trị giá 42.000.000 đồng. Nguyễn Thanh N biết rõ Đặng Tiến L1 đã có hành vi dùng vũ lực đẩy vào vai của chị A1 nhằm mục đích giúp T chiếm đoạt điện thoại của chị A1 và dựng xe mô tô biển số 61F1-377.77 lên rồi nhanh chóng điều khiển chạy đi tìm nơi tiêu thụ nhưng bị cáo N không báo cho cơ quan có thẩm quyền ngay sau khi biết, phát hiện về việc thực hiện hành vi phạm tội của Đặng Minh T và Đặng Tiến L1.

Xét hành vi của bị cáo Nguyễn Thanh N là nguy hiểm cho xã hội. Về nhận thức, bị cáo biết hành vi biết rõ một tội phạm do người khác đang thực hiện, nhưng không tố giác tội phạm đó sẽ gây ra khó khăn cho việc điều tra, phát hiện người phạm tội, đồng thời còn gây khó khăn cho việc ngăn chặn kịp thời thiệt hại xảy ra cũng như gây khó khăn cho việc tìm ra, xử lý người phạm tội. Bị cáo thực hiện tội phạm với lỗi cố ý trực tiếp. Bị cáo có năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Không tố giác tội phạm” theo khoản 1 Điều 390 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, bản Cáo trạng số 14/CT-VKSBC ngày 31/12/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát và kết luận của Kiểm sát viên đề nghị truy tố bị cáo Nguyễn Thanh N về tội: “Không tố giác tội phạm” theo khoản 1 Điều 390 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo đều có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội. Do đó cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

[4] Căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với bị cáo, bị cáo chưa có tiền án tiền sự, lần đầu phạm tội. Do đó, Hội đồng xét xử cần xử phạt bị cáo một mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo nhằm cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để răn đe, cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người công dân tốt, có ích cho xã hội và phòng ngừa chung.

[5] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, điều khoản, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, mức hình phạt đối với bị cáo là phù hợp và có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về xử lý vật chứng: Đã xử lý xong

[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 390; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Căn cứ khoản 1 Điều 21, khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh và mức hình phạt:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh N phạm tội “Không tố giác tội phạm”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh N 10 (mười) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 05/10/2021.

2. Về xử lý vật chứng: Đã xử lý xong

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Nguyễn Thanh N phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

4. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tòa tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

781
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội không tố giác tội phạm số 09/2022/HSST

Số hiệu:09/2022/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Bến Cát - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về